
JEAN-LUC GODARD TƯỞNG NHỚ FRANCOIS TRUFFAUT
Bốn năm sau sự ra đi của đạo diễn François Truffaut, cuốn sách mang tên ‘François Truffaut: Correspondence, 1945-1984’ được xuất bản. Đây là tuyển tập những lá thư Truffaut đã viết từ khi còn là một chàng trai lang thang, nổi loạn cho đến những năm tháng cuối cùng của cuộc đời. Phần lời tựa của cuốn sách được viết bởi người đồng nghiệp cùng thời với ông – Jean-Luc Godard. Tại đây, Godard đã hồi tưởng về những tháng ngày tuổi trẻ, về mối xung khắc lẫn tình bạn kỳ lạ của ông với Truffaut, đồng thời bày tỏ nỗi u hoài, tiếc thương về những vinh quang một thời của trào lưu Làn Sóng Mới Pháp.

MARTIN SCORSESE NHÌN LẠI ROCCO AND HIS BROTHERS, TRI ÂN LUCHINO VISCONTI
(Dịch từ bài luận của đạo diễn Martin Scorsese vào ngày 07/03/2016. Scorsese đã bày tỏ lòng cảm mến vô bờ đến vị đạo diễn gạo cội Luchino Visconti)

Phân Biệt Giới Tính trong Trào Lưu Làn Sóng Mới Pháp
Chuyển ngữ bởi All About Movies từ bài viết "Sexism in the French New Wave" của Jonathan Rosenbaum được đăng trên tờ Film Quarterly (số mùa xuân 2009)

THE SOUVENIR: "KỶ VẬT" TÂM HỒN CỦA MỘT THỜI CON GÁI
Kỷ vật đôi khi không chỉ là một sự vật theo nghĩa đen. Nó còn là một thứ mà ta không thể cầm nắm được, nó chỉ xuất hiện trong trí nhớ, trong cảm xúc của chúng ta. Đúng với dòng mô tả như trên, 2 phần của The Souvenir (ra mắt lần lượt vào năm 2019 và 2021) là một bộ phim theo phong cách bán tự truyện, kể lại những hành trang, ký ức và kỷ niệm trong những năm tháng tuổi trẻ của chính nữ đạo diễn của phim, Joanna Hogg.

CHO ĐẾN CUỐI CÙNG, VẪN LÀ PHỤ NỮ - PHỤ NỮ TRONG ĐIỆN ẢNH CỦA HỨA AN HOA
**Bởi Vì Thấu Hiểu, Cho Nên Từ Bi**

KHẢO SÁT ĐIỆN ẢNH MANG TÍNH CHẤT PHÊ BÌNH
Chuyển ngữ bởi All About Movies từ bài viết "Criticism on Film" được đăng trên tờ Sight & Sound (ấn bản mùa đông năm 1990/1991)

RIMINI QUÊ HƯƠNG TÔI – FEDERICO FELLINI
(Fellini sinh ra và lớn lên ở thị trấn ven biển Rimini. Quê hương Rimini đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm của ông, từ 8 ½, Amarcord cho đến I Clowns. Đoạn hồi tưởng sau đây được nhà làm phim đại tài viết vào năm 1967.)

FEDERICO FELLINI VÀ NHỮNG ĐIỀU KỲ DIỆU ĐÃ MẤT CỦA ĐIỆN ẢNH (Phần 1)
Bản dịch từ bài viết "Il Maestro" về nhà làm phim huyền thoại người Ý Federico Fellini của Martin Scorsese. Bài luận được chính vị đạo diễn chia sẻ trên Harper's Magazine hồi đầu năm nay (2021), All About Movie chỉ chuyển ngữ và chia sẻ về trang. Vì bài viết khá dài nên page quyết định sẽ chia ra làm hai phần cho mọi người tiện theo dõi, và cũng để bọn mình sửa "phần sau" được kỹ càng và chất lượng hơn. Xin cảm ơn và chúc mọi người một buổi tối vui vẻ!

DIỄN XUẤT TRONG PHIM VÀ NGHỆ THUẬT CỦA SỰ MÔ PHỎNG
Từ khoảng thế kỷ 18 cho đến đầu thế kỷ 20, những tư tưởng môn đồ Aristotle về “sự giống nhau” đã gần như chi phối hết tất cả các lý thuyết thẩm mỹ và diễn xuất của các sân khấu nhạc kịch, thường được miêu tả như “nghệ thuật của sự mô phỏng”. Trong cuốn sách Paradox of the Actor (Paradox sur le comédien, 1758) của triết gia người Pháp Denis Diderot đã nêu rằng, một người diễn viên giỏi thường sẽ không diễn vở kịch của họ dựa trên sự “nhạy cảm” mà là dựa trên sự “mô phỏng”. Theo lời của Diderot, diễn viên nào mà dựa dẫm quá nhiều vào cảm xúc thì họ sẽ rất dễ bị mất kiểm soát, bởi vì cảm xúc luôn thay đổi, một con người không thể diễn đi diễn lại một cảm xúc nhất định được. Họ cũng không thể chịu được những màn trình diễn mà khi những vở kịch có tiết tấu lên xuống liên tục, lúc thì cao trào, lúc thì trầm lắng. Ngược lại, những diễn viên biết mô phỏng một cách bài bản là những người biết cách quan sát về bản chất con người và các quy chuẩn trong xã hội. Họ hình thành cho mình một hình mẫu của những nhân vật mà họ sẽ đóng, sau đó họ sẽ tái tạo lại các hành vi và màu sắc cảm xúc để hợp nhất với cảm xúc và cách diễn của họ, thay vì dựa dẫm hoàn toàn lên cảm xúc của bản thân mình. Trong suốt thời kỳ tân cổ điển, khi mà thuật ngữ “mô phỏng” vẫn còn được hiểu theo nghĩa tích cực. Hầu hết các diễn viên đều sẽ được dạy cách để mô phỏng lại những cử chỉ và tư thế để tạo ra nhân vật mẫu. Và một số lý thuyết diễn xuất về sự mô phỏng vẫn được sử dụng cho đến tận ngày hôm nay. Bertolt Bretch đưa ra những lập luận còn sâu sắc hơn, ông cho rằng, không chỉ có những nhân vật giả tưởng mới được mô phỏng lại, mà chính tính cách và cảm xúc thật sự của những con người bình thường chúng ta cũng được phát triển thông qua việc mô phỏng. Ông nói: “Con người chính là những phiên bản sao chép, họ sao chép cử chỉ, điệu bộ, và âm sắc của giọng nói. Những giọt nước mắt được xuất phát từ nỗi buồn, nhưng nỗi buồn cũng được xuất phát từ những giọt nước mắt”. Tuy nhiên, vào khoảng 70-80 năm trở lại đây. Các hình thức đào tạo diễn viên nổi tiếng tại Mỹ đã làm dần lược bỏ đi hoặc thậm chí phủ nhận tầm quan trọng của việc mô phỏng và các khía cạnh nghệ thuật liên quan đến nó. Lee Strasberg đã từng nói: “Diễn viên không cần phải làm theo con người, bản thân của người diễn viên đã là một con người và họ có thể tự tạo ra chính mình”. Gần đây hơn, trên trang web của một trường đào tạo diễn xuất chuyên về kỹ thuật Sandford Meisner* tại San Francisco đã thông báo rằng, học viên của họ có thể được dạy để “sống một cách chân thật nhất trong trí tưởng tượng” và “thể hiện bản thân khi đang “diễn” một bối cảnh được thiết lập nên”.

NHỮNG NGƯỜI HÙNG TÂM LINH CỦA ANDREI TARKOVSKY VÀ SỰ PHẢN ÁNH LÝ TƯỞNG VỊ THA
(Trích và lược dịch từ bài luận Tarkovsky’s Philosophy of Love: Agape in Stalker and Sacrifice (2018) của tác giả Bilge Agzin, Journal of History Culture and Art Research 7)

THẦN DIỆU: ORPHEUS NHƯ LÀ JEAN COCTEAU
(Lược dịch từ bài luận của J. Hoberman)

PHONG VỊ TÂM LINH TRONG THƯỚC PHIM ROBERT BRESSON (PHẦN CUỐI)
(Dịch từ tiểu luận của nhà văn Susan Sontag, trích tuyển tập Against Interpretation and Other Essays, xuất bản năm 1966)

PHONG VỊ TÂM LINH TRONG THƯỚC PHIM ROBERT BRESSON (PHẦN 2)
(Dịch từ tiểu luận của nhà văn Susan Sontag, trích tuyển tập Against Interpretation and Other Essays, xuất bản năm 1966)

PHONG VỊ TÂM LINH TRONG THƯỚC PHIM ROBERT BRESSON (PHẦN 1)
(Dịch từ tiểu luận của nhà văn Susan Sontag, trích tuyển tập Against Interpretation and Other Essays, xuất bản năm 1966)

"OEDIPUS REX" (1967) VÀ PIER PAOLO PASOLINI
*“Lẽ vậy, ta sẽ chẳng còn nhìn thấy những tội ác mình đã kinh qua và phạm phải. Trong cái u tối ta sẽ không nhìn thấy những thứ không nên thấy. Ta sẽ chẳng còn nhận ra kẻ mà ta muốn nhận ra. Lẽ ra ta nên cắt phăng đôi tai của mình, để tự nhốt lấy linh hồn trong tấm thân bất hạnh, để không bao giờ nhìn và nghe thấy gì nữa…”* – Vua Oedipus đâm mù đôi mắt, tủi hổ vô ngần. Tiếng thét của lương tri tuyệt vọng dường như xé toạc màn trời chết chóc, ảm đạm chốn kinh thành Thebes; trích Oedipus Rex (1967), đạo diễn: Pier Paolo Pasolini.

MEIKO KAJI: NGƯỜI MÊ HOẶC THẾ GIỚI NGẦM CỦA NHẬT BẢN THẬP NIÊN 70
Meiko Kaji thực sự là một biểu tượng của điện ảnh Nhật Bản những năm 1970. Dù là yakuza, cớm bẩn, hay bọn h.i.ế.p d.â.m., cũng đều bị những nhân vật thiên thần báo thù do Meiko thủ vai tiêu diệt trong chuỗi phim khai thác (exploitation films) được cách điệu hóa cao độ, với những phim như Female Prisoner Scorpion, Lady Snowblood, Stray Cat Rock.

INGMAR BERGMAN VÀ NHỮNG HỒI ỨC QUA WILD STRAWBERRIES (1957)
Ý tưởng về bộ phim Wild Strawberries (1957) đã loé lên trong Ingmar Bergman vào một chuyến đi từ Stockholm đến Dalarna. Giữa chuyến đi ấy ông đã dừng chân ghé thăm Uppsala – quê nhà của mình, nơi Bergman sinh ra và lớn lên. Khi đang lái xe bên ngôi nhà của người bà, ông bỗng hình dung tới viễn cảnh khi mở cánh cửa chính, và rồi trông thấy mọi thứ bên trong vẫn vẹn nguyên hệt như thời ấu thơ.

HAROLD AND MAUDE (1971): VÌ CUỘC ĐỜI LÀ NHỮNG CON ĐƯỜNG THÊNH THANG
*“Cõi đất này là thể xác tôi, còn tâm trí tôi đang phiêu dạt trên những vì tinh tú.”* – Maude

THE PIANO TEACHER (2001): BẢN DƯƠNG CẦM KHẮC KHOẢI CỦA DỤC VỌNG VÀ TÌNH YÊU
*“Suy cho cùng, bản chất của tình yêu cũng chính là cực điểm của sự tầm thường.”*