
VIỄN KIẾN TRƯỜNG TỒN: ĐỌC NGÔN NGỮ CỦA ĐIỆN ẢNH
(Dịch từ bài luận của đạo diễn Martin Scorsese trên The Film Foundation, 15/8/2013)

GÁI NHẢY QUA LĂNG KÍNH CAMP/QUEER
Ra mắt năm 2003, sau quãng dài phim Việt loay hoay giữa kiểm duyệt gắt gao và những mô-típ chiến tranh cũ mòn, Gái Nhảy lập tức "gây bão" phòng vé. Không phải vì chất lượng nghệ thuật, mà vì quy tụ đủ mọi yếu tố giật gân – mại dâm, ma túy, tội phạm. Dù bị gắn mác “phản cảm”, “mì ăn liền”, “đầu độc giới trẻ”, bộ phim vẫn đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho dòng phim thương mại Việt Nam: khi cái “lố” không còn bị đào thải, mà được tiêu thụ rộng rãi và trở thành công thức thành công.

MỘT BỘ PHIM SỬ THI CÀNG DÀI CÀNG HAY
Bài viết bởi đạo diễn Oliver Stone về tác phẩm The Last Emperor (Vị Hoàng Đế Cuối Cùng) của Bernardo Bertolucci

KUROSAWA AKIRA: NHỮNG BỘ PHIM CỦA TÌNH YÊU VÀ CÔNG LÝ
Dù đã hơn 25 năm trôi qua kể từ ngày Kurosawa Akira qua đời, vị đạo diễn huyền thoại này vẫn được khán giả điện ảnh trên khắp thế giới yêu mến. Với khát vọng không ngừng khai phá tiềm năng của nghệ thuật điện ảnh và lòng nhiệt huyết dành vai trò đạo diễn đến tận những năm tháng cuối đời, có thể nói rằng ông chính là hiện thân của điện ảnh.
TÌNH YÊU NHƯ BÍ ẨN LỚN NHẤT CUỘC ĐỜI VÀ ĐỀ TÀI QUAN TRỌNG NHẤT ĐIỆN ẢNH
Bài phỏng vấn với đạo diễn Celine Song về phim 'Materialists' được thực hiện bởi Mark Olsen cho tờ LA Times, chuyển ngữ bởi All About Movies.

SANS SOLEIL - KHI ĐIỆN ẢNH LÀ SỰ TÁI TẠO CỦA KÝ ỨC
Không ai bước vào Sans Soleil. Không ai thật sự ở trong nó. Không có điểm bắt đầu, không có cái kết, không có “ai” để kể, không có “đâu” để nhớ. Chỉ có những vết nhiễu, một vệt sáng trôi lệch, một cơn sóng não, một nhịp đập mơ hồ của thời gian đã đứt.

BỘ PHIM NỮ QUYỀN ĐẦU TIÊN CỦA ĐIỆN ẢNH IRAN.
The Sealed Soil (1977) của đạo diễn Marva Nabili là một câu chuyện về những tiếng vọng của sự phản kháng, mầm mống tự do, và chân dung người phụ nữ bất khuất.

LA CHINOISE (1967): MÀU ĐỎ LÀ CỦA AI?
Pháp của thập niên 60 chứng kiến một bước chuyển mình không ngờ tới.

NAGISA OSHIMA VÀ SỨC MẠNH CỦA TUỔI TRẺ TRONG PHIM ĐỘC LẬP
Chuyển ngữ bởi All About Movies từ bài viết của đạo diễn Nagisa Oshima

POWELL & PRESSBURGER: HỒN CỐT ANH QUỐC
Dịch từ bài luận của Jonathan Rosenbaum, xuất hiện lần đầu trên The Soho News vào ngày 3 tháng 12 năm 1980.

KRZYSZTOF KIEŚLOWSKI: “TẠI SAO TÔI LẠI DỪNG VIỆC LÀM PHIM TÀI LIỆU”
Đã có một sự cố xảy ra, khi chúng tôi đang trong quá trình quay bộ phim tài liệu “Railway Station” - 1980, và đó thực sự là một lời cảnh báo sau cùng rằng tôi đã vô tình rơi vào một điều mà tôi không muốn đến. Chúng tôi quay vào ban đêm ở một nhà ga, và một đêm nọ, chúng tôi ghi hình lại phản ứng hài hước của mọi người trước những tủ gửi hành lý - lúc ấy đó là điều khá mới mẻ ở Warsaw. Không ai biết cách sử dụng chúng. Có một bảng hướng dẫn dài dòng, đại khái nói rằng trước hết phải nhét xu vào, rồi xoay, tìm số tủ, v.v… Nhiều người không biết phải xử lý thế nào, nhất là những người đến từ nông thôn. Với chiếc máy quay giấu kín một nửa, một phần của máy quay được để lấp sau lưng, hoặc quay từ xa bằng ống kính Tele - chúng tôi cố gắng quan sát và lưu giữ lại phản ứng của mọi người với mấy cái tủ này. Và chúng tôi đã ghi lại được cận cảnh một vài khoảnh khắc thú vị.

VỀ FUNNY GAMES CỦA MICHAEL HANEKE
(Dịch từ bài viết của tác giả oOoOoBarracuda)

ASPARAGUS (1979): MÊ ẢNH PHỒN THỰC CỦA SUZAN PITT
Asparagus của Suzan Pitt từng được chiếu mở màn cho Eraserhead của David Lynch trong thời kỳ bộ phim này dần trở thành hiện tượng văn hóa underground tại các rạp chiếu đêm thập niên 1970. Cả hai tác phẩm trên cùng trôi dạt trong một thực tại trừu tượng, nơi từng chuyển động chỉ có thể tạo tác từ đôi tay trần trụi của người nghệ sĩ.

NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG VÀ TIÊU BIỂU TRONG VŨ TRỤ PHIM CỦA HONG SANG-SOO
Những cuộc gặp gỡ tình cờ, ác cảm với các quy tắc và tự do khi viết đều là những điều đã tạo và hình thành nên trong các tác phẩm điện ảnh của một vị đạo diễn đặc biệt và nắm vai trò quan trọng hàng đầu trong thế hệ làn sóng mới của điện ảnh Hàn Quốc đó là HONG SANG-SOO.

DAUGHTER FROM DANANG: THẤT LẠC GIỮA HÒA BÌNH
Chiến tranh không chỉ chia cắt đường biên giới của các quốc gia trên bản đồ, chia rẽ những đất nước hay tổ chức chính trị tham chiến, mà nó còn đẩy gia đình của những người dân thường vào cảnh chia ly. Đó là bản chất của chiến tranh, cho dù nó đã xảy ra hàng thập kỷ trước hay vẫn đang bùng cháy tại nhiều nơi ngay chính thời điểm này. Thế nhưng, giữa sự tàn phá và chia cắt của bạo lực vẫn tồn tại một bản tính của loài người là niềm mưu cầu được tìm thấy nhau sau khi bị chia ly và tách rời. Nhân dịp 50 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4/1975, cùng nhìn lại một câu chuyện của một cặp mẹ-con gái đã tìm thấy nhau sau 22 năm kể từ năm 1975, để rồi lại biệt ly trong nỗi ân hận.

BẮT CHƯỚC NGƯỜI KHÁC RỒI THẤT BẠI: MỘT BUỔI CHIỀU VỚI BRESSON
Dịch từ bài viết của Mitchell Abidor, xuất hiện trong ấn bản ngày 5 tháng 1 năm 2024 của The Film Comment Letter

Anora và Midnight Cowboy, Hai Thế Hệ Oscar Xuất Sắc và Câu Chuyện Sex Worker
Chiến thắng của Anora (2024) tại giải Oscar gần đây phần nào khiến mình liên tưởng đến tác phẩm Midnight Cowboy (1969) cũng tương tự để lại dấu ấn lớn trong lễ trao giải năm 1970 với chiến thắng ở 3 hạng mục lớn bao gồm kịch bản (chuyển thể), đạo diễn cùng phim xuất sắc nhất.

FLOW (2024): CHẲNG PHẢI MỘT PHEN XƯƠNG BUỐT LẠNH?
Flow (2024) đã không kể lên một câu chuyện có con người, thế nhưng lại thấm đượm những trăn trở sâu thẳm nhất của kiếp nhân sinh: đó là sinh tồn, diệt vong, là lòng trắc ẩn cùng một ý chí siêu thường trước dòng chảy miên viễn chuyển dịch của tạo hoá. Một thước phim không lời với vẻ đẹp chân phương, bình dị, trong trẻo và trẻ thơ – Flow như đưa ta trôi đi trong ánh sáng trường cửu của một tình thương bao la giữa các chúng hữu tình. “Một cuốn sách đọc bởi một ngàn người khác nhau là một ngàn cuốn sách khác nhau.” – và có lẽ, một bộ phim đơn thuần cũng có thể hoá thành muôn hình vạn trạng dưới những xúc cảm và tâm tư riêng của mỗi người xem. Nghệ thuật đã hiện diện và lớn lên như thế tự muôn thuở nhân sinh. Dẫu đạo diễn Gints Zilbalodis đã nhấn mạnh tính vô tình và ngẫu nhiên của tác phẩm, song không thể phủ nhận, rằng với dáng dấp hồn nhiên, Flow vẫn gợi lên nhiều suy tưởng thông qua tầng tầng lớp lớp những hình ảnh đậm chất biểu tượng. Yếu tố Nước dường như hoá thân thành một nhân vật chủ chốt của bộ phim, thâm trầm mà dữ dội, dịu dàng mà vô tình tuyệt đối. Tựa như cơn Đại hồng thuỷ vô biên cuốn phăng đi mọi thứ trên dòng chảy của nó, Nước vừa là khởi nguyên, vừa là sự huỷ diệt, đồng thời cũng là biểu tượng linh thánh của sức mạnh, sự thanh tẩy và tái sinh. Con thuyền nhỏ bé trung chuyển những sinh linh sống sót của Flow hiện lên như một ẩn dụ về con tàu Noah trong Kinh Thánh, về một bóng hình lẻ loi giữa cơn cuồng nộ bạo tàn của thiên nhiên, gánh trên vai khát vọng sinh tồn và niềm hy vọng về một khởi đầu mới. Giữa chuyến viễn du khải huyền, ánh nhìn trung tâm được hướng đến một chú mèo đen nhỏ bé, và như dân gian xưa kia vẫn bao đời truyền tụng: “Cửu mệnh quái miêu” – chú mèo của Flow là sinh vật đã lạc trôi qua thập tử nhất sinh, đã gục ngã thảm bại giữa bão táp phong ba, để rồi mỗi lần sống sót, nó như được tái sinh với sự tinh anh tươi mới, với bản năng sắc bén và một ý chí kiên cường hơn. Thế giới trong Flow không có con người, thế nhưng dáng hình và hơi thở của chúng nhân vẫn hiển hiện qua những bức hoạ, kính thiên văn, bức tượng thờ và quả cầu pha lê – những dấu tích mờ phai của một cuộc di tản, hay phải chăng là một nền văn minh đã lụi tàn? Giữa những dư ảnh câm lặng của một cuộc suy vong, ta bỗng thoáng mường tượng về thế giới loài người nơi đây – một cõi nhân gian vang bóng nền văn minh Ai Cập cổ đại cùng những huyền thoại phương Đông, đã từng thờ phụng loài mèo như kẻ dẫn đường trong cõi u huyền, như lằn ranh thiêng liêng giữa sinh và tử, như biểu trưng cho trí tuệ và sự tái sinh. Ẩn dưới lớp bụi mù mịt của thời gian, những quả cầu pha lê xuất hiện tựa như muôn vì sao sáng, kính thiên văn còn hướng về tinh vân huyền hoặc – tất cả giống như một lời nguyện cầu dang dở, giống như một thoáng của đức tin, đã từng bám víu vào sự tồn tại, đã từng khát vọng tìm ra ánh sáng vượt lên bóng đêm hư vô thăm thẳm của diệt vong. Flow đã vẽ nên một thế giới thiếu đi bóng dáng con người nhưng lại ngập tràn nhân tính. Đến với cõi phiêu lãng ấy, ta vẫn tìm thấy hơi thở của trẻ thơ thuần tịnh, của những hoài niệm ngây ngô thông qua một vẻ dí dỏm rất riêng trong phim hoạt hình và cả bóng dáng những nguyên mẫu Jungian. Những sinh vật trong phim, dù được nhân hoá với trí thông minh và sự khéo léo đáng kinh ngạc, vẫn giữ nguyên những bản năng sơ khai nhất của giống loài. Chú mèo như người lữ hành nhút nhát, lặng lẽ quan sát thế gian. Capybara như một kẻ phiêu du điềm đạm, lười biếng mà an nhiên không chút ưu sầu. Chú chó lại háo hức trên chuyến hành trình nguy nan và kết giao với mọi sinh vật. Vượn cáo thì mê mẩn trước những món đồ lấp lánh, tựa như một kẻ canh giữ kho báu của những phép màu vụn vặt. Còn chim thư ký lại đạo mạo, trang nghiêm mà kiêu bạc, như thể một vị tiên giáng trần, một hiệp sĩ giữa điêu tàn hoang sơ. Có thể nói, Flow đã không tái hiện một thế giới ta vẫn hằng quen thuộc, mà vẽ nên một thực tại vừa xa lạ, vừa gần gũi, nơi muông thú gồng gánh trên vai những trách nhiệm của con người, chèo lái con thuyền giữa thuỷ vực mênh mang, và rồi làm anh hùng, làm hiệp sĩ, bảo vệ kẻ yếu, cùng nhau kiếm tìm sự sống giữa cuộc suy vong. Ta bắt gặp trong Flow một thứ tình chẳng hề nao núng trước bão giông, một lòng thương vô biên giữa chúng hữu tình, một thiện căn bền bỉ, một sự gắn kết vượt trên giống loài, giới hạn. Đó là tình bạn hữu thiêng liêng, không lời giữa những sinh thể khác biệt, là sự chở che nghĩa hiệp, cao cả giữa những kẻ cơ cực lạc lối. Và rồi, đến phân cảnh cuối phim, khi chú mèo cùng những người bạn hành trang nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chính mình nơi làn nước trong vắt, Flow đã chạm đến một khoảnh khắc thần diệu – một sự diện kiến trước linh hồn bản thân, với sự hữu hạn của kiếp sống và vòng xoay bất tận của sự tồn tại. Đối nghịch với cách nhân loại ngàn đời vẫn gồng mình chế ngự, thống lĩnh, huỷ diệt thiên nhiên, Flow, đúng như cái tên của mình, lại cất lên một tiếng gọi chấp thuận đầy nhu hoà, một sự cân bằng, nhất thể thấm nhuần giáo lý phương Đông vào cái bất biến, vào dòng chảy vô thường của kiếp phù sinh. Tiếng linh dương báo hiệu một cơn sóng thần, hay một vòng lặp mới đang cận kề, thế nhưng sau tất cả, chỉ còn một tâm thế sẵn sàng – sẵn sàng cho sự chuyển dịch, cho những biến thiên vô định và cho một lần tái sinh nữa, như chính quy luật vĩnh hằng của tự nhiên. Quy hồi vĩnh cửu – và tới đây, sấm ngôn vang vọng qua linh hồn Nietzsche: “Đời sống này, y như người đang sống và đã sống đến nay, ngươi phải bắt đầu sống trở lại nó và cứ bắt đầu trở lại y như thế mãi mãi không thôi… Sự đau khổ nhỏ bé nhất, nỗi khoái lạc nhỏ bé nhất, tư tưởng nhỏ nhặt nhất, tiếng thở dài mây khói nhất, tất cả mọi sự trong cuộc đời mi đều sẽ quay về lại với mi, tất cả những gì tuyệt vời cao đại và tất cả những gì nhỏ bé vô song…” – chỉ Trẻ thơ mới chuyển những lời sấm sét điêu linh ấy thành Yêu thương. Không phải im lặng nhẫn nhục trước những gì xảy đến, mà còn đối diện với chúng bằng sự sẵn sàng chấp thuận, và tối cùng nhất, bằng một cái tình thanh khiết vô biên. Ta nhớ đến khoảnh khắc chim thư ký bay vào không gian huyền diệu của sao trời tinh vân – một sự chuyển sinh vượt thoát trầm luân, một sự khai sáng của tâm linh siêu việt, sau khi đã vẹn toàn lý tưởng Siêu nhân, anh hùng:

MULHOLLAND DRIVE VÀ SỰ TAN VỠ GIẤC MƠ MỸ
David Lynch được tờ Guardian của Mỹ mệnh danh là “đạo diễn của giấc mơ”. Ông có biệt tài thâm nhập vào hang cùng ngõ hẻm của tâm trí con người, phân mảnh những hình dung, tưởng tượng, ám ảnh sâu kín nhất, để từ đó ghép chúng lại thành một tổng thể mang hàm nghĩa chính trị, xã hội, và triết học rộng lớn hơn. Ẩn sâu trong vẻ đẹp siêu thực, huyền bí của các tác phẩm của Lynch chính là ý niệm bi thương và xuyên [](<>)suốt về sự tan vỡ của “Giấc mơ Mỹ”.\ \ “Giấc mơ Mỹ”, hay “The American Dream”, nói đến hệ giá trị tự do - bình đẳng - dân chủ, cho rằng bất cứ ai cũng có cơ hội đạt được thành công trên đất nước Hoa Kỳ thông qua tài năng, nỗ lực và sự quyết tâm. Liệu “Giấc mơ Mỹ” có phải là điều có thể chạm tới được hay chỉ là ảo tưởng của những kẻ ngây thơ? Đây là câu hỏi trung tâm trong nhiều bộ phim kinh điển của điện ảnh Mỹ dù mang hàm ý cổ suý hay phê phán. Với David Lynch, ông có cách rất riêng để khám phá, phản biện, bác bỏ, và định nghĩa lại “Giấc mơ Mỹ” qua Mulholland Drive (2001).\ \ Mulholland Drive được BBC bình chọn là bộ phim hay nhất của thế kỷ 21 do có cốt truyện đa tầng đa nghĩa, gợi mở nhiều cách diễn giải cho khán giả. Theo cách giải thích phổ biến nhất của các nhà phê bình, tác phẩm có thể được chia ra làm hai phần: phần thứ nhất là ảo mộng, phần thứ hai là “đời thực”. Diane Selwyn (Naomi Watts) là một diễn viên trẻ với ước mơ đạt được thành công tại Hollywood. Tuy nhiên, tất cả tham vọng và hoài bão của cô sớm bị dập tắt bởi sự khắc nghiệt của ngành công nghiệp điện ảnh. Không thể đối mặt với thực tại, cô trốn thoát vào thế giới hoàn hảo của những mơ tưởng. \ \ Trong phần thứ nhất của bộ phim, Diane vào vai phiên bản lý tưởng của mình dưới cái tên Betty Elms, một cô đào mới nổi với sự nghiệp thuận buồm xuôi gió cùng mối tình chớm nở với người đẹp bí ẩn Rita (Laura Harring). Khi ấy, Los Angeles trở thành phông nền cho cuộc đời trong mộng của Diane qua những cảnh quay soft focus huyền ảo và thủ pháp dựng phim cross-fade. Ánh sáng hoa lệ của thành phố bao bọc lấy Diane như một cái bẫy ngọt ngào, dần lôi cuốn cô vào những góc tối lẩn khuất. Ở phân đoạn Club Silencio, ảo thuật gia (Richard Green) đã lặp lại câu thần chú "No Hay Banda" (Không có ban nhạc nào cả). Tất cả chỉ là ảo ảnh. Và mọi cung đường của bộ phim đều đưa Diane Selwyn lẫn người xem về với thực tế nghiệt ngã. \ \ Bước ngoặt trong phần thứ hai là khi Diane chứng kiến người tình của mình, Camilla Rhodes (phiên bản “đời thực” của Rita), tình tứ với đạo diễn ngay giữa phim trường. Đó là lý do tại sao Camilla được đảm nhận vai chính nổi bật, còn Diane phải đóng vai phụ mờ nhạt. Lúc này, máy quay lột tả trần trụi những giọt nước mắt vỡ mộng và căm hận của Diane trước bản chất suy đồi của Hollywood. Ở đó, thứ quyết định thành bại của một nữ diễn viên không phải là tài năng, mà là sự trao đổi thân thể với những nhà sản xuất quyền lực và những đạo diễn máu mặt để đổi lấy thăng tiến trong sự nghiệp. \ \ Tất cả sự phản bội và tuyệt vọng đó đã đẩy Diane rơi vào trạng thái tâm lý điên loạn, mất định hướng. Khi ấy, “Giấc mơ Mỹ” về thành công viên mãn chỉ là viển vông. Thế nhưng, cơn ác mộng về sự thất bại và dở dang là có thật. Trong phỏng vấn với The Criterion Collection, David Lynch đã nói về Diane như sau: “Cô gái đặc biệt này nhìn thấy những thứ cô ấy muốn, nhưng không thể có được chúng. Bạn có thể có tài năng và những ý tưởng vĩ đại nhất, nhưng nếu cánh cửa số phận không mở ra, bạn sẽ không còn may mắn nữa.” Ông cho rằng thành công của người nghệ sỹ phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như cơ hội, may mắn, và số phận. Quan điểm này đi ngược lại hoàn toàn với giá trị cốt lõi của “Giấc mơ Mỹ” khi nó nhấn mạnh vào các yếu tố chủ quan như thực lực, quyết tâm và ý chí tự do. \ \ Mang vẻ đẹp huyền hoặc và đau thương, Mulholland Drive (2001) là một bức mosaic cấu thành từ những mảnh vỡ của “Giấc mơ Mỹ”. Không những vậy, bộ phim còn gợi lên chiêm nghiệm sâu xa hơn về thân phận con người. Phải chăng ý chí tự do của chúng ta luôn phải chịu khuất phục trước bàn tay toàn năng của số phận? Phải chăng những gì đẹp đẽ nhất đều chỉ tồn tại trong ảo tưởng, còn hiện thực thì luôn hẩm hiu, bạc bẽo? Phải chăng đời người chỉ là cơn ác mộng dài của những hoài bão dở dang và ý tưởng không thành hình? David Lynch không đưa ra câu trả lời cụ thể cho những câu hỏi trên. Mà có lẽ cũng chẳng có câu trả lời nhất định nào cả. Bởi vì, giống như những bộ phim của ông, cuộc sống có nhiều điều bí ẩn hơn là những lời giải đáp. Điều này đòi hỏi khán giả phải tiếp tục đàm luận để tìm ra đáp án cho câu đố sống động, bất hủ mang tên David Lynch.

THỰC TRẠNG ĐIỆN ẢNH 2024: Tự Do Ngôn Luận và Tự Do Sáng Tạo
bởi Sergei Loznitsa cho tờ Sabzian