phân tích

MƯA TRÊN CÁNH BƯỚM (2024): MỘNG HỒ ĐIỆP TRONG DUYÊN NỢ BA SINH

Người viết: Tâm Nguyên Abu

img of MƯA TRÊN CÁNH BƯỚM (2024): MỘNG HỒ ĐIỆP TRONG DUYÊN NỢ BA SINH

Thi nhân Nguyễn Bính xưa từng mơ hoá thành bướm, cùng người thương phiêu lãng giữa vườn hoa lê, đắm mê cảnh sắc thần tiên để rồi quên đi lối về. Trong giấc mộng cổ tích, Nữ Chúa Vườn Lê kiêu sa bỗng hiện ra, cất tiếng ôn tồn như thấu tỏ cõi lòng đôi hồ điệp lạc lối:

“Bà thấy vợ chồng con Bướm dại Sụt sùi ngồi khóc dưới hoa lê. Đến bên âu yếm, bà thương hại: “Ý hẳn hai con lạc lối về?”” (Trích thơ “Truyện cổ tích”)

Hồ điệp của cổ điển văn chương là biểu trưng cho ước vọng siêu linh, cho trùng điệp lạc lối giữa hồng trần biến ảo. Hình tượng thơ mộng ấy, tựa lời nguyện cầu vượt thoát kiếp phù sinh, đã in dấu sâu nặng trong tiềm thức tôi. Khi bước vào rạp xem Mưa Trên Cánh Bướm, tôi mang tâm thế sắp được đắm chìm trong một câu chuyện thần tiên, thoát tục, dịu dàng như bao áng thơ kim cổ. Thế nhưng thật lạ lùng, và cũng trớ trêu thay, bộ phim của đạo diễn Dương Diệu Linh lại dẫn dắt tâm trí người xem vào một mê cung đầy khiêu khích, bi hài, trần tục của đời sống, và cánh bướm lạc lối cô đơn giờ đây lại trở thành hiện thân cho kiếp đàn bà – mong manh, nhỏ bé, vật lộn giữa bão giông.

Mưa Trên Cánh Bướm không phải một câu chuyện thần tiên, mà chỉ là một cảnh đời trần tục. Đó là sự cùng quẫn trong những thói đời hư trá, những tri kiến sai lệch, những niềm trăn trở tính dục gần gũi mà cũng trần trụi và cay đắng nhất. Bộ phim đưa ta đến với thế giới của bà Tâm (Tú Oanh) - một người phụ nữ trung niên bất chợt phát hiện chồng mình ngoại tình. Trớ trêu thay, với công việc tại một khách sạn chuyên tổ chức tiệc cưới - nơi bà Tâm chứng kiến bao câu chuyện tình yêu nồng cháy khi còn chớm nở, thì sự phản bội từ người chồng đã không chỉ như một cơn mưa tàn nhẫn gột rửa hết mọi giá trị hôn nhân bà từng nâng niu, tin tưởng, mà còn đẩy bà vào một hành trình khủng hoảng nội tâm đầy oan trái và đơn độc. Mặt khác, người con gái trẻ tuổi của bà Tâm, với tâm thế bất mãn trước cuộc sống thực tại tù túng, ngột ngạt, đang dưỡng nuôi hy vọng rời bỏ quê nhà để xây dựng một tương lai mới. Hai thân phận phụ nữ trong phim tựa như đôi cánh bướm cô đơn, lạc loài, vật lộn giữa bao “gió mưa là bệnh của giời” để tìm kiếm sự thoát ly khỏi thực tại nghiệt ngã. Quả thực, Mưa Trên Cánh Bướm mang trong mình một sức hút riêng biệt, với vẻ đẹp nữ tính tân kỳ và niềm cảm thông vô bờ với thân phận người phụ nữ. Những trò bói toán, các biện pháp tâm linh và cả sự mê tín hòng trói buộc người chồng bội bạc cho đến cô con gái ẩm ương - dường như người phụ nữ đang toan về già trong thước phim kỳ khôi ấy cứ quẩn quanh giành giật, níu kéo từng tia hy vọng tưởng như tầm thường, mong manh nhất. Những khổ đau cùng cực được miêu tả bằng một ánh nhìn châm biếm, hóm hỉnh mà chua cay, tựa như câu nói khi xưa của Vua Hề Charlie Chaplin, rằng “Cuộc đời là một bi kịch khi nhìn cận cảnh, nhưng lại là hài kịch khi nhìn từ xa”. Ta xót xa cho số kiếp bị phụ tình của bà Tâm, nhưng cũng bật cười chua chát trước những xung đột nội tâm bi hài của người phụ nữ ấy, trước khoảnh khắc bà như lịm đi khi thấy chàng ca sĩ trẻ tuổi hát về tình yêu đôi lứa, trước cách bà gắng gượng nhét vừa cơ thể đang nhão ra, chảy ra trong một chiếc váy sặc sỡ, trước cách bà bẽn lẽn, e lệ khi gặp lại người mình từng thương thầm nhớ trộm thuở xuân xanh. Có lẽ Mưa Trên Cánh Bướm cũng chính là tấm gương phản chiếu bản chất của cõi giả tạm phù sinh – nơi hạnh phúc và khổ đau luôn song hành, nơi những giấc mộng bay bổng, hay bình dị nhất cũng phải mang trên mình bao đắng cay trần thế.

Điện ảnh Việt Nam chỉ có thể đón chào một cơn mưa mới mẻ khi ta biết kể lên câu chuyện của chính mình, và tôi cho rằng Mưa Trên Cánh Bướm, dẫu mang dáng dấp non trẻ, hỗn tạp, vụng về, thì vẫn là một minh chứng đầy quả cảm, táo bạo cho thứ bản sắc có ở riêng ta. Dễ xem, dễ cảm thụ - bộ phim mang hơi thở kỳ bí của yếu tố tâm linh, văn hoá dân gian Đông Nam Á, nhưng cũng đan xen tính dịu dàng, tươi trẻ của thời đại mới. Chất liêu trai và hồn cốt siêu thực hiển hiện trên thước phim sắc màu rực rỡ đã góp phần làm nên một phong cách nghệ thuật độc đáo, riêng biệt của Mưa Trên Cánh Bướm. Không giống như giấc mộng hồ điệp thần tiên của thi ca, giấc mơ của người phụ nữ trong phim hoá hiện thành cơn ác mộng trần tục, “chập chờn cơn tỉnh cơn mê”. Hình ảnh trần nhà dột nát trong phim là một thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, là biểu trưng cho một nỗi ám ảnh thường trực, tựa như cuộc hôn nhân vụn vỡ của bà Tâm, như những mưu cầu hạnh phúc còn đang bỏ ngỏ, để rồi cuộc sống hay chính cõi tâm hồn con người dần hoen gỉ, cứ mòn đi, mục đi qua tháng ngày. Và phải chăng thực thể kỳ bí ẩn náu trong căn nhà tù túng, ngột ngạt ấy không chỉ là một nét chấm phá siêu linh, mà còn là hiện thân cho những ẩn ức sâu thẳm, những khát vọng câm lời, cho phần vô thức u minh triền miên đeo bám con người? Tất cả đã kiến tạo nên một bức tranh mang màu sắc trần tục về kiếp người – mong manh, vô định nhưng vẫn khao khát về một phép màu siêu thoát.

Tôi nhớ áng văn Trang Chu khi xưa mộng hồ điệp tiêu dao tiên cảnh, viễn ly chốn bào ảnh phù sinh. Tôi nhớ Lương Sơn Bá nguyện cùng Chúc Anh Đài hoá đôi bươm bướm tự tại giữa trời xanh, siêu thoát khỏi thị phi hồng trần. Tôi muốn bàn về cánh bướm như hình tượng của vẻ đẹp mong manh, dịu dàng, như hiện thân của khát vọng siêu thực, thoát ly:

“Gió thông đưa kệ tan niềm tục Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời.”

Thế nhưng, mộng hồ điệp trong Mưa Trên Cánh Bướm nào có phải áng văn kim cổ của siêu việt tâm linh, mà đơn thuần là giấc mơ đời thường, không hơn không kém của người đàn bà nhỏ bé bất lực. Mưa Trên Cánh Bướm, bằng một ánh nhìn trần tục, thường tình nhất, đã tỏ ra trung thực vô ngần với những khát khao phàm phu nhưng thống thiết, dai dẳng của kiếp người – đó là ước vọng về một mái ấm bình yên, được thương yêu, thấu hiểu, được nương tựa. Người phụ nữ trong phim hiện lên như cánh bướm mong manh với giấc mộng đổi thay thực tại. Giấc mơ hối thúc tâm trí con người thoát ly khỏi hiện thực nghiệt ngã, nhưng lại vô tình trói chặt con người với những quẩn quanh bụi trần, càng nỗ lực vùng vẫy càng thêm chấp niệm, đau khổ. “Vũ vô kiềm toả” – bản thân gió mưa nào đâu có xiềng xích trói buộc, nhưng sao vẫn vùi dập tàn nhẫn trên cánh bướm mong manh? “Phi oan trái bất thành phu phụ.” - có lẽ trong cái duyên nợ ba sinh của bà Tâm ông Thành, thì chữ “nợ” nặng hơn chữ “duyên” muôn phần, nên bà Tâm quẩn quanh níu kéo trong bi hài, thảm thương, thay vì chặt phăng oan nghiệt để hoá thành cánh bướm thần tiên, tự tại. Đến những phút giây cuối cùng của bộ phim, một tiếng khóc ré lên khiến người ta phải rùng mình, báo hiệu cho sự ra đời của một đứa trẻ - một trói buộc mới lại hình thành. Thế nhưng giữa khung cảnh ảm đạm tiêu điều ấy phải chăng vẫn tồn tại một hy vọng le lói? Sự chào đời của một sinh linh có thể mang đến không gian đổi mới cho cuộc sống đang mòn đi, mục đi hay chăng? Và rồi ta sẽ nhớ đến người con gái trẻ tuổi của bà Tâm, nhớ đến giấc mơ siêu thường của cô sau trận mưa long trời lở đất - một cánh đồng bát ngát như cổ tích thần tiên, nơi những cánh bướm mong manh phiêu du tự tại. Ta đặt ngôi sao hy vọng vào giấc mộng hồ điệp của người con gái, rằng cô sẽ hoá cánh bướm xinh yêu bay đi khỏi thực tại đày ải tù túng, khỏi mưa gió vô tình để vươn đến bầu trời tự do.

“Đêm qua mơ thấy hai con bướm Khép cánh tình chung ở giữa trời.”


Ủng hộ All About Movies

Đóng góp cho các tay viết của AMO
hàng tháng chỉ từ 10K VNĐ

amo