phim Việt Nam

CU LI KHÔNG BAO GIỜ KHÓC (2024): LANG THANG LÀM KHÁCH PHONG TRẦN MÃI?

Người viết: Mai Thị Tâm Nguyên

img of CU LI KHÔNG BAO GIỜ KHÓC (2024): LANG THANG LÀM KHÁCH PHONG TRẦN MÃI?

Xưa kia, đạo diễn huyền thoại Andrei Tarkovsky đã từng chiêm nghiệm: “Điện ảnh là bức tranh khảm làm nên từ thời gian”. Dưới một ánh nhìn đa cảm, thấm đẫm hồn thơ, thì phim ảnh quả thực không đơn thuần là chuỗi khung hình tiếp nối một cách vô hồn, mà là sự chắt lọc những tinh tuý nhân sinh, là sự thu vén từng khoảnh khắc giữa cuộc đời nhiệm màu. Từng phút giây lặng thầm trên thước phim đều góp phần hoạ nên một bức tranh nhuốm màu ký ức, với uy linh hùng lực vượt lên cả không gian, thời gian. Cách đây không lâu, câu nói năm xưa của Tarkovsky lại bất giác vang vọng nơi tâm khảm, khi tôi có may mắn được thưởng thức phim Cu Li Không Bao Giờ Khóc và trò chuyện với đạo diễn Phạm Ngọc Lân trong một buổi chiếu trước đầy ấm cúng. Quả thực, Cu Li Không Bao Giờ Khóc hiện lên như một bức tranh khảm chan chứa hoài niệm, một chuyến phiêu du thanh thoát, trầm mặc, phi thời gian, đưa người xem trở về với miền ký ức xa xôi, sâu thẳm nhất. 

Bộ phim đưa ta theo dấu chân bà Nguyện (NSND Minh Châu) - một người phụ nữ cao niên goá bụa. Từ nơi đất khách xa xôi, bà trở về quê hương Việt Nam xưa cũ, cùng lọ tro cốt và một con cu li – kỷ vật cuối còn sót lại từ người chồng quá cố. Quay về cố hương, thế nhưng bà Nguyện lại bỗng trở thành kẻ xa lạ, choáng ngợp trước sự biến chuyển, chảy trôi và vô thường của cuộc sống, như thể thời gian đã vùi lấp đi bao dư vị quá khứ đắng cay, ngọt bùi. Mặt khác, người cháu gái tuổi xuân xanh của bà Nguyện lại đang đứng trước một quyết định hôn nhân chóng vánh, như một khúc quanh đầy hoài nghi giữa hiện tại và tương lai. Hai con người xung khắc, hai thế hệ xa xôi, cách biệt. Nếu như bà Nguyện già nua bị giày vò bởi những ký ức khắc khoải, vô định, thì người cháu gái non nớt cũng chìm trong bao nỗi âu lo, trăn trở về một tương lai chưa rõ hình hài. Giữa dòng chảy vĩnh hằng của thời gian, họ dấn thân vào chuyến hành trình một đi không trở lại, nơi mỗi bước chân như thể một vết hằn khó phai trên cõi đất phù du, giả tạm.

Diện kiến nét đẹp cổ kính của Cu Li Không Bao Giờ Khóc, tôi bất giác nhớ về những trang văn, những thước phim nguyên sơ đã dưỡng nuôi tâm hồn tôi từ thuở thơ bé, và tôi tin rằng nhiều khán giả sắp tới cũng sẽ có cảm xúc hoài niệm giống như tôi. Với tôi, nhịp phim trầm mặc, chậm rãi của Cu Li Không Bao Giờ Khóc tạo nên một phong vị tâm linh đặc biệt – thứ mà xưa kia tôi đã từng say mê trong những áng văn thanh thoát, thơ thẩn của Thạch Lam, trong giọng điệu trần trụi mà buồn thương của Nam Cao, trong những thước phim Việt Nam đen trắng thô sơ từ thế kỷ trước, hay thậm chí cả những tác phẩm Tân Hiện thực Ý kể về nỗi cơ cực, gian khó, lầm than của con người. Sắc đen trắng của bộ phim, kết hợp cùng những cảnh quay góc máy rộng ghi lại bóng hình quê hương đất nước, từ chốn đô thị phồn hoa cho tới miền chân quê bình dị, đã không chỉ góp phần kiến tạo một hồn phim cổ kính, mẫu mực của điện ảnh trăm năm, mà còn gợi lên một bức hoạ phi thời gian đầy rợn ngợp, một giấc mơ bồng bềnh của kỷ niệm và ký ức. Những ca khúc thấm đượm bản sắc văn hoá dân tộc mà đạo diễn lựa chọn đưa vào phim, từ “Thiên Thai” cho tới “Đất nước trọn niềm vui”, dẫu mang âm vọng riêng về niềm yêu, cái tôi của người nghệ sĩ, nhưng cũng gợi lên cảm xúc rất đỗi thân thuộc, như thể cái tôi riêng biệt ấy đã thể nhập vào cái ta chung, cái tình chung của đất nước, quê hương. Âm nhạc khi ấy trở thành tiếng nói của các thế hệ, nối dài mạch nguồn văn hoá không ngừng chuyển lưu. 

Không gian, thời gian thơ mộng, giao thoa giữa hiện tại và lòng tôn kính lịch sử của Cu Li Không Bao Giờ Khóc khiến tôi tự hỏi, rằng đã bao lâu rồi tôi mới được trông thấy một Hà Nội đằm thắm, chân thực, như thể đang lờ lững, ngưng đọng giữa dòng chảy nhân sinh miên man, trông thấy một Việt Nam bình dị, chất phác và nên thơ đến vậy trên màn ảnh? Quả thực, Cu Li Không Bao Giờ Khóc tựa như một bức thư đong đầy tình yêu và cả niềm trăn trở, hoài niệm gửi đến những người con quê hương. Và điều kỳ diệu của bức thư ấy chính là cách nó đã khắc hoạ nên hình ảnh về một ký ức tập thể của con người Việt Nam, được thêu dệt trên bức màn kỷ niệm riêng tư, sâu thẳm của tâm hồn nghệ sĩ, thể hiện rõ nhất trong các phân đoạn độc thoại nội tâm trữ tình. Cũng bởi tính phi thời gian, mà Cu Li Không Bao Giờ Khóc mặc nhiên mang sức mạnh soi chiếu đến quá khứ, hiện tại và cả tương lai cuộc sống, con người. 

Tới đây, tôi muốn trích dẫn những tâm tư của đạo diễn Phạm Ngọc Lân về tác phẩm này: “Đây là một dự án đặc biệt: bộ phim có góc nhìn trung dung và hòa ái về các vấn đề xã hội và lịch sử, có quan điểm cởi mở và tiến bộ về nhiều nhóm yếu thế trong xã hội. Vậy nên giai đoạn phát hành mở ra cơ hội để chúng tôi hợp tác với nhiều bên: khối truyền thông sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa - lịch sử - nghệ thuật, các tổ chức văn hóa quốc tế tại Việt Nam, các tổ chức công tác xã hội dành cho các nhóm yếu thế và các nhóm làm nghệ-thuật-mới. Bản thân tôi cho rằng việc đưa phim ra rạp không nên chỉ có một mục đích duy nhất là kiếm tiền mà cũng nên là cơ hội để cả ê-kíp làm phim thực thi trách nhiệm xã hội của mình với sự tử tế sẵn có.”. Áp lăng kính phi thời gian nhiệm màu của Cu Li Không Bao Giờ Khóc lên quá khứ, hiện tại và tương lai của điện ảnh nước nhà, tôi tin rằng bộ phim đã thành công trong việc truyền tải một tinh thần nhân văn cao cả, khơi dậy cảm hứng cho nhiều nhà làm phim trẻ. Và tôi khẳng định rằng, mình dám mơ về một cơn mưa, một làn sóng mới mẻ trong tương lai của điện ảnh Việt Nam.

Bên cạnh giá trị nghệ thuật, Cu Li Không Bao Giờ Khóc cũng mở ra một không gian suy tư đầy ám ảnh về kiếp người, với nhiều trăn trở hiện sinh cùng chiều sâu triết lý. Con người trong phim hiện lên với ẩn ức, ưu tư, sự xa cách, lạc lõng cùng nỗi khắc khoải câm lời. Liệu màn sương ký ức mịt mù của bộ phim được làm nên bởi những xung đột giữa hai thế hệ cách biệt tuổi tác, giữa trái tim u hoài với một xã hội biến chuyển, hay phải chăng tất cả những điều đó chỉ là sự phản chiếu của một cuộc đấu tranh nội tâm dai dẳng – nơi con người trốn chạy như thể mãi mắc kẹt trong một bản ngã hư ảo, lạ lẫm và không đủ can đảm để tìm về bản nguyên chân thật ẩn giấu bên trong mình? Tôi muốn gọi bà Nguyện là Kẻ Xa Lạ trên chính vùng đất quê hương, giống như cuốn sách L’Étranger (The Stranger) của Albert Camus. Đồng cảm với nhân vật Mersault, bà Nguyện dường như cũng mang một nỗi cô độc hiện sinh, và sự hiện hữu của bà giữa những ký ức cùng biến chuyển xã hội không chỉ phản ánh sự bất lực của con người trong việc đi ngược lại cái vô chung vô thuỷ của thời gian, mà còn mở ra một cuộc đấu tranh giữa bản tánh chân thật và vỏ bọc xa lạ ta khoác lên mình để đối diện với thực tại phi lý. Giữa mảnh đất cố hương thân thuộc, bà Nguyện hiện lên như một vị khách phong trần lạc lối, giống như câu thơ khi xưa của vua Trần Thái Tông:

“Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách, 

Nhật viễn gia hương vạn lý trình.“

Tạm dịch:

“Lang thang làm khách phong trần mãi,

Ngày cách quê hương muôn dặm trình.”

Có lẽ Cu Li chỉ có thể tìm về với cố hương chân thật ngời sáng khi biết gỡ xuống vỏ bọc xa lạ, khi ngừng đuổi theo đến những bóng dáng hư huyễn trên đường trần, để rồi cất lên tiếng khóc tỉnh mộng sau bao năm tháng câm lời. Đúng như tiếng nói khắc khoải, thấm đượm triết lý nhân sinh của Heraclitus xuất hiện trong bộ phim: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”, những con người nhỏ bé nhất cũng phải học cách sống giữa dòng chảy vô thường của cuộc đời, học cách thương yêu, trân trọng những kỷ niệm, đồng thời buông bỏ những giận hờn, cay đắng. Khi Cu Li biết khóc, đó không chỉ là tiếng khóc của sự giải thoát khỏi kiếp lữ khách phong trần, mà còn là lời thức tỉnh, rằng chỉ khi dám đối diện với bóng tối trong tâm hồn và những ký ức đã ngủ yên, ta mới có thể tìm về bình yên nơi bản tính chân thật, rằng mỗi khoảnh khắc nhiệm màu đều là chứng nhân cho sự sống, sự mất mát và tái sinh.


Ủng hộ All About Movies

Đóng góp cho các tay viết của AMO
hàng tháng chỉ từ 10K VNĐ

amo