phân tích

NAGISA OSHIMA VÀ SỨC MẠNH CỦA TUỔI TRẺ TRONG PHIM ĐỘC LẬP

Người viết: Ette

img of NAGISA OSHIMA VÀ SỨC MẠNH CỦA TUỔI TRẺ TRONG PHIM ĐỘC LẬP

Chuyển ngữ bởi All About Movies từ bài viết của đạo diễn Nagisa Oshima

--------------

Với một tinh thần đấu tranh bất thỏa hiệp, Nagisa Oshima (1932–2013) hay được biết như một trong những nhà làm phim chính trị nhất của thế hệ mình. Trong quãng đời mình, ông đã giữ rất nhiều ghi chép cũng như nhật ký về những suy ngẫm và phản tư về triết lý cá nhân và nghệ thuật của ông – vai trò cùng ảnh hưởng của bối cảnh xã hội và nền công nghiệp điện ảnh ở Nhật Bản lên quan điểm và những thực hành cá nhân.

Bài tiểu luận sau đây được ông viết vào năm 1969 là một lời kể chân thành về một thời niên thiếu đầy khắc khoải và phẫn uất, thuật lại những biến động chính trị – xã hội ở Nhật Bản từ sau Thế chiến II đến phong trào biểu tình sinh viên đã góp phần định hình tuổi trẻ cùng quá trình phát triển nghệ thuật cá nhân ông. Qua đó, ta được hiểu rõ thêm về những trăn trở của ông về những nghịch lý giữa tinh thần đấu tranh cùng ý thức về lịch sử trong xã hội Nhật Bản thời hậu chiến.

------------------

Thời niên thiếu của ta bắt đầu và kết thúc khi nào? Tôi tự hỏi liệu một người có thể biết được khi nào thời niên thiếu của họ bắt đầu. Ít nhất là đối với tôi, điều đó dường như là không thể.

Tôi nghĩ rằng mình vẫn còn là một người thanh thiếu niên. Tôi tự hỏi liệu có phải đó là vì tôi là người làm phim hay không. Người xem phim đa phần là giới trẻ. Khảo sát cho thấy rằng nhóm khán giả xem phim đông nhất ở Nhật Bản thuộc độ tuổi từ 17 đến 22. 

Giới trẻ vô cùng say mê điện ảnh. Tôi tự hỏi liệu họ có nhìn thấy được cuộc sống trên phim không? Họ bàn về chúng một cách rất sôi nổi. Gần như ai cũng có một đến hai bộ phim họ đã rất si mê gắn bó trong thời niên thiếu. Và có lẽ họ cũng có ký ức về một quán cà phê nào đó nơi họ đã từng ngồi hàng giờ để thảo luận về một bộ phim.

Thế nhưng đến một lúc nào đó họ lại ngừng xem phim. Khi đã có công ăn việc làm và lập gia đình rồi họ dường như không còn xem phim nữa. Họ sẽ nói những câu như: “Ồ, phim à? Tôi cũng muốn xem lắm, nhưng tôi không có thời gian.” Tôi đã từng có một buổi đối thoại trên truyền hình với một nhóm các bà nội trợ nói như thế. Người dẫn chương trình đã hỏi: “Anh sẽ nói gì với bọn họ?” Tôi nói rằng tôi không làm phim cho những người bảo rằng họ không xem phim. Họ không xem thì cũng không sao. 

Điều làm tôi khó chịu là cái vẻ bề trên mà họ tỏ ra khi nói đến việc đó. Nó như thể họ đang nói rằng họ không muốn xem những thứ như vậy. Tôi nói rằng: “Các người nói dối. Các người không xem phim. Thật ra các người chẳng hứng thú gì đến phim ảnh cả. Tôi chắc rằng các người cũng không đọc sách. Ngoài việc tiêu thụ nhìn những hình ảnh được chiếu trên chiếc TV ra thì các người chẳng còn thể tiếp thu được điều gì nữa cả. Các ngươi đã để bản thân mình hoàn toàn chết não. 

Tôi không rõ ở những nơi khác ra sao, nhưng ở Nhật Bản, điều đó xảy ra với tất cả những người sau vị thành niên. Ở một nước Nhật như vậy, tôi chọn làm một con người độc lập. Phim của tôi là phim độc lập. Mười lăm năm trước, tôi cũng đã có một sự nghiệp. Mười năm trước, tôi đã lập gia đình. Dù kết quả có ra sao nhưng bởi vì ngã đường tôi chọn, tôi đã không có điều kiện để bản thân mình bị chết não. Có thể đó là điều không tránh khỏi, nhưng trong khoảng thời gian ấy, cùng với một số người bạn, tôi đã phải tiếp tục đọc và tư duy rất nhiều. Vì thế tôi nay đã trở thành một con người độc lập.

Chỉ có giới trẻ xem phim của tôi. Những người bạn thời thanh thiếu niên của tôi mười lăm năm trước ngày nay hay nói rằng: “Phim cũ của cậu hay thật nhỉ?… À mà dạo này cậu đang làm phim gì thế? Gần đây tôi bận quá không có thời gian xem phim của cậu. Xin lỗi nhé. Tôi sẽ xem phim mới của cậu. Cho tôi biết khi nào nó ra rạp nhé.” Cảm ơn, cảm ơn. 

Tôi chẳng biết phải nói gì thêm. Họ nói phim cũ của tôi hay, nhưng thật chất họ chỉ có thể theo dõi một bộ phim và bị làm lay động bởi nó khi họ còn giữ được một sự thấu cảm nhất định. Họ từng có sự thấu cảm đó trong thời niên thiên khi chúng còn sắc bén nhất. Dù họ có xem phim gì bây giờ nữa thì sự thấu cảm ấy nay cũng đã mờ nhạt, vì thế mà họ sẽ không còn bị lay động bởi nữa. Họ đã đánh mất cả cái thôi thúc bản thân để xem một bộ phim. 

Khi nói chuyện với họ, tôi cảm thấy như mình vẫn đang ở còn như một thanh niên. Một con người độc lập, mà bởi lẽ đó cũng đầy ắp sự nổi loạn. Sự nổi loạn là dấu hiệu rõ ràng nhất của một người trẻ vị thành niên. Tôi vẫn không thể nào ngưng nổi loạn. Mỗi khi nói chuyện với người trẻ, tôi tự ngẫm với bản thân rằng: “Họ rồi cũng sẽ có công ăn việc làm và một gia đình và trở thành những kẻ chết não như bao con người Nhật khác.” Chỉ có tôi là sẽ vẫn còn ở lại đây. Tôi buộc phải ở lại. Tôi buộc phải tiếp tục sống như một người một người trẻ với tinh thần nổi loạn độc lập ấy.”

Tôi tự hỏi thời niên thiếu của tôi bắt đầu từ khi nào. Tôi không thể tự mình xác định được. Nhưng có lẽ tôi buộc phải nhắc đến những gì đã xảy ra ngày hôm ấy - dù cho bản thân có miễn cưỡng, vì đã có quá nhiều người, đủ các loại người, đặc biệt là trong giới trí thức cùng thế hệ với tôi, đã nói rất nhiều về ngày hôm ấy.

Đó là một ngày hè oi bức khi một sự trầm lặng kỳ lạ bỗng dưng bao trùm cả nước Nhật. Tôi khi ấy chỉ mới mười ba tuổi, đang còn học lớp tám. Lúc đó tôi đang chơi cờ tướng với bạn mình trong một căn nhà tăm hoang tại khu buôn bán ở thành phố Kyoto. Đến trưa bạn tôi đã đi bộ về nhà cách đó khoảng mười căn để ăn trưa, vẫn để nguyên quân cờ trên bàn như vậy cho tôi. 

Hồi đó thật khó để tưởng tượng được việc ta có thể sang nhà ở đó hoặc được họ mời đến nhà ăn cùng, thế nên tôi đã đợi bạn mình ăn trưa xong để quay lại để tiếp tục chơi cờ. Buổi trưa cũng không khác gì ban sáng hôm ấy. Ánh mặt trời vẫn chiếu gay gắt, thế nhưng căn nhà cổ ở Kyoto lại hoàn toàn tối tăm. Chúng tôi im lặng nhìn chằm chằm vào bàn cờ, mà thực chất chỉ là đáy của một chiếc hộp gỗ dán giấy với những đường kẻ được vẻ bằng bút mực và phủ vecni cẩn thận.

Thế nhưng trong chính ván cờ đó mà cả thế giới đã thay đổi. Chuyện đó đã xảy ra. Điều mà chúng tôi được dạy là không bao giờ có thể xảy ra, điều mà chúng tôi luôn tin rằng sẽ không bao giờ xảy ra, cuối cùng đã xảy ra. Tôi không nhớ mình đã thắng hay thua ván cờ đó, nhưng có thắng thua thì cũng chẳng có ý nghĩa gì. 

Người mẹ can đảm của tôi khi đó đã thay đồ xong để chuẩn bị đi đón em gái tôi ở trại sơ tán. Và rồi có lẽ bà khi ấy đã phải cố bám vào một chiếc tàu lửa chật kín người chen lấn lẫn nhau. Nếu đúng thật là như vậy, thì tối hôm đó tôi đã ở nhà một mình. Tôi tự hỏi liệu hôm ấy tôi đã có tự chuẩn bị bữa tối cho mình khi ấy không. Không, lúc đó chẳng còn gì để ăn, nên lúc đó tôi chỉ biết co rúm người lại trong sợ hãi cả đêm.

Nghĩ lại, tôi cho rằng ngày hôm đó - ngày 15 tháng 8 năm 1945, ngày mà Thiên hoàng đã tuyên bố trên đài phát thanh về việc Nhật Bản đầu hàng - chính là khởi điểm cho thời niên thiếu của tôi. Nếu đúng là vậy, tôi cho rằng mình đã có thời niên thiếu kỳ lạ. 

Lý do tôi cho rằng thời niên thiếu của mình đã bắt đầu vào ngày ấy là vì khi đó tôi đã học được rằng không có gì thực sự là “không thể xảy ra”. Tôi đã từng nghĩ thời niên thiếu của mình sẽ tràn đầy nhiều sự hy vọng hơn, bởi vì cha tôi - người đã mất khi tôi mới sáu tuổi - đã để lại cho tôi rất nhiều sách, và đến thời điểm đó, tôi đã đọc hầu hết các tác phẩm kinh điển trong ấy. 

Tôi thậm chí còn lướt qua vài trang của một quyển Tư bản luận rất cũ. Theo những gì tôi hiểu được từ những trang sách ấy, thời niên thiếu thường bắt đầu bằng một sự ngây thơ và niềm hy vọng, và kết thúc bằng nỗi thất vọng và những tan vỡ. Thế nhưng thanh xuân của tôi lại bắt đầu bằng sự thất vọng. Không có một chút hy vọng nào cả.

Tôi nhớ rằng ngày hôm sau đó tôi đã ra đào vườn. Đó là một khu vườn nhỏ truyền thống ở Nhật, có ao cá và đèn đá, nhưng nó đã được cải tạo lại thành một mảnh ruộng khoai lang, và tôi đã cất vài quyển sách ở đó trong một chiếc chum lớn. Chúng tôi gửi hầu hết những thứ như bách khoa toàn thư và sách cũ cho em gái tôi ở trại sơ tán, thế nhưng với những quyển quen thuộc. đặc biệt quan trọng với tôi thì tôi đã cất chúng trong chum. Đó đã là một ý tưởng tệ. 

Chiếc chum hút rất nhiều ẩm khiến cho những quyển sách bị mục nát một nửa. Một mùi hương kỳ lạ bốc lên từ những tàn tích của trang sách khi chúng được phơi ra dưới ánh nắng ban ngày. Nhìn vào chúng, tôi cảm thấy rằng chính tôi -người từng yêu những quyển sách đó - thật xấu xí. Trong khoảng năm hay sáu năm sau ấy, tôi chỉ đọc sách giáo khoa và tạp chí Baseball Magazine. Tôi cũng không có tiền để mua sách. Tôi chỉ bao giờ đến hiệu sách lúc bấy giờ để ăn trộm đồ. Một cuốn từ điển bán chạy trong nhà sách khi đó là thứ dễ ăn trộm và bán lại nhất.

Tôi tự hỏi khi nào từ phẫn uất’ lại trở nên phổ biến như hiện nay. Chắc hẳn nó đã bắt đầu được sử dụng thường xuyên hơn sau các cuộc biểu tình phản đối Hiệp ước An ninh năm 1960. Người ta nói rằng những thanh niên và sinh viên tham gia cuộc đấu tranh ấy đều mang những nỗi phẫn uất rất lớn. Cả ba bộ phim tôi thực hiện trước và sau các cuộc biểu tình đó - Cruel Story of Youth, The Tomb of the Sun, and Night and Fog in Japan - đều là những câu chuyện về niềm phẫn uất của các thanh thiếu niên.

Thời đó khi đi làm phim cho hãng, ta phải biên soạn trước một thứ gọi là “bản kế hoạch sản xuất” đầu trang kịch bản. Nó không phải lúc nào cũng thể hiện đúng ý đồ của người nghệ sĩ; thay vào đó, nói nhiều lúc chỉ để nhằm đối phó với những thi sách từ phía công ty. Thế nhưng những bản “kế hoạch sản xuất” này vẫn phần nào đó đáng tin cậy. Trong bản kế hoạch sản xuất của Cruel Story of Youth tôi đã viết:

“Đây là câu chuyện về những người trẻ chỉ có thể bộc tả sự tức giận của tuổi trẻ mình qua những cách lệch lạc. Sự lệch lạc đó đã đưa tuổi trẻ của họ, từ điều vốn đã có thể tưới đẹp đến với sự thất bại tàn khốc. Qua câu chuyện này, tôi muốn được kể về niềm phẫn nộ mãnh liệt đối với những điều kiện đang chi phối tuổi trẻ ngày nay.”

Trong bản kế hoạch sản xuất của Night and Fog in Japan, tôi đã viết: “Tất cả mọi người đều có trách nhiệm. Những kẻ đã tạo ra hoàn cảnh hiện tại có trách nhiệm phải sửa chữa nó. Những người lẻ ra có khả năng để tạo ra thay đổi nhưng lại an phận trong cuộc sống thường nhật; những người từng xông pha dẫn đầu cho sự thay đổi nay trở nên bất kiên nhẫn chỉ biết chờ đợi nó xảy ra ngoài bên mình, và cả những người đang duy trì tình trạng trì trệ dù cho sự tin tưởng tuyết đối của họ về khả năng của bản thân tạo nên thay đổi; tôi kịch liệt lên án sự tha hóa, suy đồi và sai lầm của những kẻ như vậy.”

Trong một bản kế hoạch, tôi đã viết về sự thất bại; trong bản khác, tôi viết về nỗi thất vọng. Nhìn nhận vấn đề theo cách đó, tôi có thể chắc rằng khi làm phim về thời niên thiếu, tôi có thể miêu tả về một nỗi thất vọng cùng sự thất bại mà vẫn đang tiếp tục đeo bám tôi. Điều này càng dễ nhân ra hơn khi các bạn xem phim tô, và có một số nhà phê bình xuất sắc đã nhận ra được điều đó ngay lập tức.

Điều buồn cười là ngay sau khi tôi làm những bộ phim ấy, đạo diễn Masumura Yasuzo, người chỉ lớn hơn tôi vài tuổi, đã có bảo tôi trong lần đầu gặp gỡ rằng: “Có chuyện gì vậy? Cậu trông trẻ măng như thế thì có gì để mà uất ức?” Quả thực ông nói có phần đúng. Tôi gần như chưa bao giờ tỏ vẻ buồn bực trước mặt ai. Ngay cả khi ở một mình, vẻ mặt tôi cũng thường không hay u sầu. Tôi chưa từng trải qua cảm giác không thể ăn uống nổi vì thất vọng điều gì đó. 

Hơn nữa, tôi cũng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện tự sát. Có thể việc tôi thường hay kể những câu chuyện về nỗi thất vọng của tuổi trẻ là lạ lẫm với nhiều người , nhưng nó thực chất hoàn toàn không xa lạ với tôi chút nào.

Sự phẫn uất là lẽ tự nhiên. Một khi ta hiểu rằng trên đời này không có gì là “không thể không xảy ra”, rằng mọi nỗ lực của chúng ta cùng đều có thể trở nên công cốc. Rằng dù ta có nỗ lực đặt ra cho mình một mục tiêu để phần đấu thì những việc dường không liên hệ gì đến mình cũng có thể quyết định kết quả của chúng ta. Vì lẽ đó mà trong thời niên thiếu - quãng thời gian mà những đam mê của ta còn đang bập bùng rực cháy - thì sẽ có rất nhiều cơ hội để ta cảm thấy thất vọng. Tôi đã nhận ra điều này từ lâu. Và tôi vẫn cứ mỉm cười. Tôi chẳng ngạc nhiên gì khi thấy bản thân bị thất vọng.

Tôi đã hiểu được điều đó từ khi nào? Tôi tự hỏi có phải từ ngày hôm đó không. Tôi đã ngừng đọc sách từ ngày đó. Tôi thử mình trong nhiều lĩnh vực là cầu thủ tệ nhất trong một đội bóng chày nghiệp dư. Tôi tham gia kịch sân khấu sinh viên, dù diễn rất dở thế nhưng tôi vẫn tự huyễn hoặc rằng mình giỏi nhì trường. Khi vào đại học, tôi chọn ngành luật thay vì văn học. Tôi cố tránh mọi sự suy nghĩ và sự chiêm nghiệm. Tôi muốn mình chỉ như một xác thịt không ý thức.

Thế nhưng, khi bước vào đại học, tôi bị một cảm giác thất vọng lạ lùng ấp đến. Tôi bỗng dưng cảm thấy như mình đang ở hồi kết trong thời niên thiếu của mình. Kỳ lạ thay, bởi tôi thường hay cảm thấy tuổi trẻ mình kết thúc vào lúc lẽ ra nó mới bắt đầu. Các buổi lên lớp nhàm chán; tôi không có một xu dính túi. 

Theo học ngành luật thế nhưng tôi chẳng biết mình muốn làm gì sau này. Tôi không có một cô bạn gái xinh đẹp, và dù vẫn hy vọng rằng mình là một thiên tài, tôi dần nhận ra là không phải. Việc tôi sống thờ ơ sống suốt 5 năm qua từ ngày tháng 8 đã bùng phát vào khi ấy. Tôi thấy mình hoàn toàn bơ vơ trong khuôn viên rộng lớn của nhà trường, hoàn toàn không đâu để đi hay nơi nào để bám víu. Và tôi cảm thấy lo sợ trước cảm giác tuổi trẻ của mình đã kết thúc.

Với tâm trạng đó, tôi quay lại với sân khấu và tham gia phong trào sinh viên. Phong trào ấy trở thành một cuộc đấu tranh được mất. Nhiều cuộc đấu tranh kết thúc trong thất bại. Thế nhưng các thủ lĩnh vẫn luôn tuyên bố rằng chúng tôi đã thắng. Họ cố tìm cho mình những lý do để biện minh cho lời nói đó. 

Nhưng tôi thì không thể tin được vào điều đó. Thất bại là thất bại. Có gì là sai? Khi nghĩ vậy, tôi cảm thấy vận mệnh của bản thân và cuộc phong trào biểu tình hòa làm một. Nói một cách hoa mỹ, tôi cảm thấy bản thân mình hòa vào trong lịch sử. Lúc đó, cảm giác thất vọng của tôi tan biến. Tôi quyết định buông xuôi trước những ham muốn của hiện tại và để mặc mình cho số phận. Tôi không còn sợ thất bại, thất vọng hay cả sự cô độc nữa. 

Tôi tham gia phong trào sinh viên chỉ vì tôi muốn. Tôi không gia nhập bất kì phe phái lãnh đạo nào cả. Vào thời gian đó, tôi nghĩ mình đang trôi theo dòng chảy của lịch sử.

Khi ấy, tôi vô tình đọc được một quyển sách và tim thấy một câu nói. Đó quyển là Huyền thoại Sisyphus của Camus, và câu nói kia là của Akashi Kaijin - một thi sĩ mắc bệnh phong: “Nếu bạn không tỏa sáng như những con cá dưới đáy đại dương, thì sẽ chẳng còn đâu có ánh sáng cả.” Câu nói đó và hình ảnh Sisyphus tiếp tục đẩy hòn đá lên đỉnh núi, dù nó có lăn xuống bao nhiêu lần, miêu tả đúng cảm giác của tôi lúc đó.

Phong trào sinh viên kết thúc trong nhiều thất bại, và tôi cũng đã mắc vô số sai lầm trong đoàn kịch sân khấu sinh viên. Chớp mắt đã bốn năm trôi qua. Khi đang lắng nghe bài phát biểu ngớ ngẩn của hiệu trưởng, tôi tự nghĩ: “Cứ như bị một hòn đá lăn đuổi…” Có lẽ, điều duy nhất tôi thu nhận được sau bốn năm đại học là một hình dung rõ ràng về thế nào là sự thất vọng.

Tôi bước vào xưởng phim với suy nghĩ đó. Tại đây, tuổi trẻ thứ hai bắt đầu. Còn những gì thì là một câu chuyện rất dài. Tôi đã thất bại hết lần này đến lần khác - nhưng những ai quen biết tôi thì đều biết rằng: tôi sẽ ổn cả thôi.

1969

-----------------------

Trích từ sách Cinema, Censorship, and the State xuất bản bởi MIT Press, biên soạn bởi Annette Michelson.


Ủng hộ All About Movies

Đóng góp cho các tay viết của AMO
hàng tháng chỉ từ 10K VNĐ

amo