phim Việt Nam

THƯƠNG NHỚ ĐỒNG QUÊ: HOÀI NIỆM VỀ MỘT MIỀN QUÊ ĐÃ MẤT

Người viết: Quốc Trần

img of THƯƠNG NHỚ ĐỒNG QUÊ: HOÀI NIỆM VỀ MỘT MIỀN QUÊ ĐÃ MẤT

Đất nước Việt Nam đang trên đà mạnh mẽ tiến đến hiện đại hóa, đô thị hóa các vùng nông thôn. Đây là một biến chuyển tốt, song, dù muốn hay không, lối sống hiện đại sẽ dần dần thay thế giá trị xưa cũ của những làng quê mộc mạc như là một điều tất yếu của cuộc sống. Rồi sẽ đến một lúc nào đó, hình ảnh làng quê xưa cũ đó chỉ còn tồn tại trong miền kí ức của những người thuộc thế hệ cũ để họ thương nhớ mà thôi. 

Nhà làm phim lão làng Đặng Nhật Minh đã tiên đoán được sự lãng quên về gốc gác của những người lên thành phố tha hương cầu thực; những tháng ngày giản dị của cuộc sống nông thôn dần thay đổi, đôi khi đến mức tha hóa, trong dòng chảy hiện đại hóa qua bộ phim Thương Nhớ Đồng Quê được ra mắt từ tận năm 1995.

Năm 1994, Đài truyền hình NHK Nhật bản tài trợ cho Việt Nam kinh phí làm một phim để Nhật có thể đóng góp cho việc kỷ niệm 100 năm sự ra đời của điện ảnh trên thế giới. Bộ phim “Thương nhớ đồng quê” từ ấy được ra đời. 

Chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tác phẩm điện ảnh này vừa là một lời tri ân vừa là khúc bi ca cho miền quê Việt Nam, khắc họa cuộc sống giản dị nhưng đầy phức tạp của những con người gắn bó với đất đai bởi truyền thống và sự cần thiết. Thông qua các nhân vật và nhịp phim chậm rãi, bộ phim nắm bắt được bản chất của một thế giới trên bờ vực thay đổi, nhưng vẫn ngập tràn truyền thống bám rễ như cây cổ thụ xưa. Miền quê trong phim không chỉ là bối cảnh mà trở thành một bức tranh sống động, ghi lại những cuộc đấu tranh thầm lặng, hoài bão chưa trọn vẹn và nỗi tiếc nuối một tương lai dang dở của những người trẻ nơi đây.

Tâm điểm của bức tranh làng quê này là Nhâm (diễn viên Tạ Ngọc Bảo), chàng trai 17 tuổi với cuộc sống bị chi phối bởi nhịp điệu tuần hoàn của ruộng lúa, những uẩn ức tuổi mới lớn, và những mối quan hệ căng thẳng trong gia đình. Là một chứng nhân thầm lặng và người giữ gìn ký ức của đời sống thôn quê chậm rãi nhưng âm ỉ đổi thay, Nhâm tham gia một cách không chủ ý vào những nỗi buồn không lời và cậu dường như mang vai trò của một người kể chuyện đang dẫn dắt người xem vào vùng đất hoài niệm của riêng cậu. Công việc hàng ngày của Nhâm hiện lên đầy thi ca thông qua ống kính của Đặng Nhật Minh, xen kẽ với những khoảnh khắc suy tư khi cậu nhìn ra cánh đồng rộng lớn hay nhấm nháp một bông lúa và ngước mắt nhìn trời. Sự giản dị của những cảnh này chứa đựng chiều sâu của nỗi khao khát trong Nhâm – một nỗi đau âm thầm phản ánh chính mảnh đất mà cậu gắn bó.

Nhâm yêu thích thơ ca và văn học nhưng nhà nghèo nên cậu đành ở nhà để trao lại cơ hội đi học cho cô em gái của mình. “Tôi mơ mộng lắm, thích làm thơ và hay nghĩ ngợi vẩn vơ. Tôi nghĩ về nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất, về những số phận hắt hiu đầy mặt đất. Bao tháng ngày trôi đi, bao kiếp người trôi đi. Sự khéo léo nào của ngôn từ kể lại được. Ai nhặt cho tôi buổi sáng mai này, nhặt được sợi tóc bạc trên đầu mẹ tôi, nhặt được niềm hi vọng hão huyền trong lòng chị dâu tôi, và nhặt được mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quê tôi.” 

Một câu thoại tự sự ngắn ngủi thôi đã tóm gọn được tính cách của nhân vật Nhâm này khi cậu đạp xe qua băng qua những cánh đồng và những người nông dân đang cấy cày, đạp qua nơi đồng quê đã sinh và nuôi dưỡng cả cuộc đời cậu. Nhâm không suy tư về những thứ cao siêu, cậu chỉ lo nghĩ về một “nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất” của những số phận con người hắt hiu và nhỏ bé, trong đó có gia đình cậu. Nỗi lo của Nhâm thật đời thường, nhưng không vì vậy mà nó tầm thường. Cậu lo về tuổi già của mẹ, nỗi buồn của chị dâu, và cái nghèo của làng quê mình – những nỗi lo của một người con hiếu thảo và một con người trưởng thành.

Nhâm lớn khôn trong một gia đình và môi trường hầu không có đàn ông. Những mối quan hệ của Nhâm với những người phụ nữ xung quanh cậu như chị dâu Ngữ (diễn viên Thúy Hường), cô gái Quyên (NSƯT Lê Vân) bí ẩn trở về từ nước ngoài, và thậm chí cả mẹ cậu đã làm nổi bật chủ đề hoài niệm pha lẫn với nỗi tuyệt vọng thầm lặng. Giống như Nhâm, những người phụ nữ trong phim đều mất đi sự hiện diện của người đàn ông của họ trong đời. 

Chị Ngữ, vợ của người anh trai đã bỏ đi làm ăn biệt xứ của Nhâm, mang trong mình một câu chuyện pha trộn giữa sự kiên cường và kìm nén những tâm tư thầm kín, chỉ được bộc lộ qua những cử chỉ tinh tế và ánh nhìn thoáng qua dành cho Nhâm và Quyên. Sự vắng mặt của người chồng, gói gọn trong những lời hứa mơ hồ và những lá thư xa xôi, khiến cô bám víu vào một “hi vọng hão huyền” theo lời Nhâm. Cô, và cả nhân vật chị Thoa đã góa chồng, là hiện thân của người vợ truyền thống, ràng buộc bởi bổn phận với nhà chồng nhưng vẫn khao khát nhiều hơn vì cô vẫn còn trẻ và vẫn muốn được yêu.

Nỗi cô đơn và ẩn ức tình dục của Ngữ được đẩy lên đỉnh điểm trong phân đoạn cả hai đập lúa buổi đêm. Cô lao vào ôm Nhâm đầy khắc khoải và tuyệt vọng, nhưng cũng vô cùng thỏa mãn vì đã lâu lắm rồi cô mới được dựa vào lòng của một người đàn ông. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, cả hai tạm thời trút bỏ mối quan hệ em chồng – chị dâu đã gắn kết họ từ đâu. Lúc này đây, họ đơn thuần là hai tâm hồn lạc lõng với một tương lai vô định. Cả hai hiện lên thật nhạy cảm, đa chiều dưới góc nhìn nhân văn và vị tha của Đặng Nhật Minh. Cô đại diện cho sức mạnh và sự kiên cường của những người phụ nữ nông thôn Việt Nam vững chãi, cần mẫn, và âm thầm chịu đựng khó khăn. 

Nhưng bên dưới vẻ ngoài kiên cường ấy là nỗi cô đơn sâu sắc và những khát vọng thầm kín chỉ được biểu lộ qua các tương tác và ước mong không lời của cô. Những đấu tranh của Ngữ vẽ nên bức chân dung của bao người phụ nữ Việt Nam nơi thôn quê có vẻ ngoài giản dị nhưng chứa đựng nhiều tầng lớp cảm xúc chưa bao giờ được bộc lộ trọn vẹn.

Ngữ mang một sự tương phản rõ rệt với Quyên mới trở về từ nước ngoài, đại diện cho sự tự do nhưng gắn liền với nỗi mất mát và lạc lõng. Vẻ ngoài hợp mốt, hiện đại cùng đôi mắt chất chứa sự xa lạ và hoài niệm của cô gái Việt kiều này làm xáo trộn sự cân bằng mong manh của làng quê. Sự hiện diện của cô thách thức không chỉ nhận thức của Nhâm về bản thân cậu mà còn cả cách mà dân làng hiểu về chính họ. Cô là một lời nhắc nhở hữu hình về thế giới bên ngoài cánh đồng lúa, nhưng lại bị ám ảnh bởi những gì đã bỏ lại phía sau – quê hương, bản sắc, và một phiên bản giản đơn hơn của chính cô. Những cảnh Quyên và Nhâm chia sẻ những khoảnh khắc không lời bên dòng sông hay giữa tiếng rì rào của rặng tre đã nói lên nhiều điều hơn bất cứ câu thoại nào, sẻ chia một cảm giác chung về sự mất phương hướng.

Phân cảnh tắm sông đáng nhớ nhất của phim phá vỡ lớp màn phòng vệ ban đầu, để lộ ra một Quyên nhạy cảm và yếu ớt hơn. Cô nhớ quê, nhớ nhà, nhớ người thân – một nỗi thương nhớ đồng quê của người con xa xứ. Cô tâm sự với Nhâm rằng:

“Nhâm biết không, những ngày ở xa, chị chỉ ao ước được 1 lần tắm sông.”

“Ở đâu mà chẳng có sông hả chị?” Nhâm đáp.

“Có chứ, mà lạnh lắm.”

Không biết đã bao lâu kể từ lần cuối Quyên gieo mình xuống dòng sông quê đấy. Liệu cô có tiếc nuối về con người mình đã đánh mất vào lần tắm sông cuối cùng đó không? Có lẽ là có. Được dòng sông tuổi thơ ôm ấp, vỗ về, Quyên sống lại với hoài niệm của bản thân. Nhưng hoài niệm vẫn chỉ là hoài niệm, không phải thực tại. Giây phút yên bình ngắn ngủi này sớm bị phá vỡ bởi một bước ngoặt tiến triển tâm lý của Nhâm. 

Cậu ngắm nhìn Quyên tắm dưới sông và lén chớp lấy một mùi hương từ chiếc áo cô để lại trên bờ với sự tò mò tuổi mới lớn xen lẫn với sự tôn kính gần như linh thiêng dành cho một cảm giác xa lạ đầu đời của mình. Cảnh phim này là sự giằng xé giữa sự trong sáng và thức tỉnh tính dục, cho thấy cách làng quê dung chứa cả sự thuần khiết của tâm hồn lẫn ham muốn thể xác. Máy quay của đạo diễn Đặng Nhật Minh lặng lẽ quan sát và không xâm phạm, ghi lại sự ngượng ngùng dịu dàng của tình yêu tuổi trẻ và sự trân trọng mà Nhâm dành cho cả người phụ nữ và dòng sông gắn liền với mảnh đất quê hương.

Thương nhớ đồng quê không chỉ lãng mạn hóa cuộc sống nông thôn mà nó còn phơi bày những thực tế khắc nghiệt của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Bộ phim hé lộ những bất bình đẳng kinh tế-xã hội đẩy những thanh niên như anh trai Nhâm lên thành phố, để lại làng quê cho phụ nữ, trẻ em và người già. 

Nhưng trong sự khắc nghiệt đó, đạo diễn Đặng Nhật Minh tìm thấy những khoảnh khắc đẹp lặng lẽ: một buổi biểu diễn rối nước mê hoặc người dân làng, những buổi gặt lúa, hay những cuộc trò chuyện pha lẫn cay đắng và tự trách giữa thầy giáo của Nhâm và Quyên: “Dân thành phố chúng ta đều có tội. Chúng ta tàn phá họ bằng những lạc thú vật chất của mình. Bóc lột họ, vô trách nhiệm dối với họ. Trong lúc người nông dân phải gánh vác bao nhiêu thứ nghĩa vụ, nhưng có ai có nghĩa vụ đối với họ đâu.”

Chính lối sống vô sỉ và tha hóa của một vài cá nhân đại diện cho mặt tiêu cực của thời kỳ chuyển từ nông thôn lên thành thị đã gây nên một tai nạn thảm thương cho Minh và Mi, những cô bé đại diện cho tia hy vọng của tương lai làng, là một cú sốc làm choáng váng cả nhân vật lẫn khán giả. Đó là lời nhắc nhở đau đớn về sự mong manh của sự sống và cách mà nó có thể bị phá hủy nhanh chóng bởi những thế lực vượt ngoài tầm kiểm soát. Nhưng ngay trong nỗi đau thương, vẫn tồn tại sự đoàn kết – bằng chứng cho sự kiên cường gắn kết người dân với nhau và với mảnh đất của họ.

Cuối phim, gia đình tan tác mỗi người một nơi: Nhậm đi nghĩa vụ, em gái đã qua đời, Quyên buồn bã về nước, còn chị Ngữ sau khi không tìm được chồng lại quay về với cuộc sống cũ của một người con dâu và chăm sóc người mẹ chồng đang đau đớn vì mất con gái. Một cái kết man mác buồn và ám ảnh mãi sau khi bộ phim kết thúc về sự vô thường và đột ngột của dòng chảy cuộc đời, nhắc nhở rằng cuộc đời luôn biến dịch không khác gì dòng sông ở quê. Khi Nhâm lên đường nhập ngũ, cậu viết lời tạm biệt đầy cảm xúc: “Tôi tên là Nhâm, tôi thương nhớ làng quê của tôi, và tôi sẽ trở về” vào một tờ giấy rồi thả bay đi theo cơn gió của quê hương. Một cảnh kết mang đậm chất điện ảnh đạo diễn Đặng Nhật Minh khi nó mang một nỗi buồn khó tả được trộn lẫn với tia hi vọng về một tương lai tốt hơn dành cho những phận đời nhỏ bé, tạo ra một mối liên kết sâu sắc, bền bỉ với cội nguồn ngay cả khi phải đối mặt với những thay đổi không thể tránh khỏi.

Từng khung hình được sắp đặt tỉ mỉ và cách quay phim chậm rãi của đạo diễn Đặng Nhật Minh thổi hồn vào cảnh quan, biến nó thành một nhân vật riêng biệt có sự sống đầy phức tạp. Những cánh đồng lúa, rung rinh dưới làn gió, dường như đang đập nhịp sống. Chúng chứng kiến những lén lút tình tứ, những nỗi buồn giấu kín và những ước mơ thì thầm của làng quê. Việc sử dụng các yếu tố thiên nhiên như tiếng nước vỗ, lá xào xạc, ánh sáng mờ ảo trên những bụi tre đã phản chiếu tâm tư của các nhân vật, tạo nên một sự cộng hưởng sâu sắc giữa họ và môi trường. 

Chia sẻ về quá trình quay, quay phim Nguyễn Hữu Tuấn có cho hay trong quá trình khảo sát bối cảnh làng Phú Cường, ông đã phải thơ thẩn trong làng nhiều ngày để cảm nhận được nhịp chậm rãi của làng quê, dự rằng phim này sẽ là cách nhìn khách quan, không tạo gay cấn cho nội tâm nhân vật: 

“Người nông thôn có thể hiện cái gì ra mặt đâu. Văn của (Huy) Thiệp cũng vậy mà. Khi quay tôi luôn nhớ đến điều đó, phong cảnh làng quê đã quá hấp dẫn rồi, không cần đến sự bày vẽ của tạo hình. Góc độ cũng đừng bổ nhào từ trên cao hay hất ngược từ dưới đất lên. Tiêu cự ống kính sao cho hợp với tầm nhìn của mắt người.”

Câu chuyện phim trải dài như chuỗi ký ức sống động, mỗi cảnh đều tràn ngập biểu tượng. Cảnh cặp ếch giao hoan giữa trời mưa và tổ chim với những chú chim non là những ẩn dụ tinh tế cho cảm xúc nguyên sơ và bản năng của các nhân vật trong phim. Những hình ảnh này khơi gợi một sự bản chất song nghĩa của cuộc sống nông thôn trong phim: vòng tuần hoàn của sự sống vừa nuôi dưỡng vừa kìm kẹp, sự khao khát được đổi mới cuộc đời đối đầu với cảm giác an toàn và thân thuộc của hiện tại.

Vị đạo diễn khéo léo tạo xây dựng bộ phim Thương Nhớ Đồng Quê với cái nhìn dân tộc học, tôn vinh những phong tục gắn liền với cuộc sống nông thôn dù chúng cũng phơi bày sự mong manh của nó. Những nghi thức truyền thống, những khúc hát và nhịp điệu công việc hàng ngày đều góp phần vào tạo nên cảm giác đứt gãy của sợi dây liên kết các giá trị sống trong quá khứ và nhịp sống hiện đại ngày nay.

Thương Nhớ Đồng Quê là một khúc bi ca vang vọng trong lòng những ai từng cảm thấy sự lôi cuốn của quê hương và nỗi đau khi phải rời xa nó. Nó nói lên một nỗi khao khát phổ quát, sự cân bằng dễ vỡ giữa việc giữ lấy quá khứ và bước vào tương lai bất định. Qua cái nhìn đầy cảm thông và chân thực của Đặng Nhật Minh, làng quê trở thành cả một nơi chốn và một trạng thái tồn tại đầy vẻ đẹp, gian khó và một cảm giác gắn bó lâu dài. 

Poster thiết kế bởi Kisses on Main Street


Ủng hộ All About Movies

Đóng góp cho các tay viết của AMO
hàng tháng chỉ từ 10K VNĐ

amo