phân tích
BỘ PHIM NỮ QUYỀN ĐẦU TIÊN CỦA ĐIỆN ẢNH IRAN.
Người viết: Ette

The Sealed Soil (1977) của đạo diễn Marva Nabili là một câu chuyện về những tiếng vọng của sự phản kháng, mầm mống tự do, và chân dung người phụ nữ bất khuất.
------------------------
Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Cahiers du féminisme do nhà báo Yalda Ebtehaj thực hiện, nhà làm phim Marva Nabili đã giải thích quyết định rời khỏi Iran của mình, với lý do rằng bà không thể chịu đựng được những diễn giải có tính thị dâm và phi tình dục hóa phụ nữ của nam giới trong điện ảnh.
Bà bày tỏ nỗi thất vọng xen lẫn phẫn uất về những trải nghiệm trong quá trình hành nghề của mình. Cuộc phỏng vấn khép với một lời tuyên bố có phần thăng trầm của bà rằng: “Nhưng ở phương Tây, kể cả Hollywood, điện ảnh phần lớn là những dự án mang tính thương mại, và không ai muốn đầu tư vào những bộ phim như của tôi, đặc biệt khi xét đến các chủ đề tôi theo đuổi cùng phong cách làm phim của tôi.”
Những phê phán của Nabili về cách thể hiện giới trên phim phản ánh những đặc tính rộng hơn về nền điện ảnh Iran trước cách mạng Hồi giáo, đặc biệt là với dòng phim filmfarsi trực thuộc, phát triển mạnh mẽ từ đầu những năm 1950 cho đến thời điểm Cách mạng năm 1979. Được đánh dấu bởi tính chất trữ tình và những cảnh tượng ồn ào gây kích thích, dòng phim filmfarsi thường kết hợp giữa cảm xúc cao độ với các cốt truyện hành động. Những bộ phim này phản ánh nỗ lực của điện ảnh Iran trong việc hòa giải giữa những truyền thống tôn giáo vốn đã ăn sâu bén rễ vào văn hóa quốc gia với những thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại hóa dưới những ảnh hưởng của phương Tây.
Tuy bản thân là một dòng phim giải trí cho đại chúng, nó cũng phản ánh những căng thẳng chính trị xã hội đương thời trong những sự giằng co của truyền thống và hiện đại. Mặc dù rất phổ biến, Làn sóng mới của Iran được hình thành cả bên trong lẫn bên cạnh nó, mang đến loại điện ảnh tinh vi và trầm tư hơn, đặc trưng bởi hình thức đổi mới với những đề tài phức tạp hơn. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này bao gồm Khesht va Āyne [Brick and Mirror] (Ebrahim Golestan, 1965), Ārāmesh dar Hozure Digarān [Tranquility in the Presence of Others] (Nasser Taghvai, 1972), và Shatranj-e Bād [Chess of the Wind] (Mohammad Reza Aslani, 1976).
Khi xem xét kỹ hơn về Làn Sóng Mới của Iran trước Cách mạng Hồi Giáo, ta nhận thấy chỉ có ba người phụ nữ là Kobra Saeedi, Forugh Farrokhzad và Marva Nabili đã từng đảm nhiệm vai trò đạo diễn, điều qua đó làm nổi bật những giới hạn sâu sắc về giới trong ngành công nghiệp điện ảnh ở Iran bấy giờ. Trong số đó, Nabili đã khẳng định vị thế của mình như một nhân vật tiên phong qua những khắc họa phụ nữ đầy táo bạo và tinh tế, thách thức các khuôn mẫu điện ảnh ở Iran vào thời điểm bấy giờ. Tác phẩm đầu tay của bà, The Sealed Soil, không chỉ được ghi nhận như bộ phim nữ quyền đầu tiên trong lịch sử điện ảnh Iran, mà còn là bộ phim truyện dài đầu tiên còn sót lại do một nữ đạo diễn người Iran thực hiện – một dấu mốc quan trọng trong đại diện về giới cũng như trong nền công nghiệp điện ảnh Iran.
Qua The Sealed Soil cùng những tác phẩm sau này của bà, Nabili đã giúp định hình lại nền điện ảnh Iran qua việc đặt ra một sự đối trọng phản biện với các tự sự mang nặng tính nam giới, từ đó đóng góp vào những tranh luận rộng lớn hơn về giới, bản sắc cùng những biến chuyển xã hội. Bà theo học hội họa tại Đại học Tehran vào đầu những năm 1960, và được giới thiệu khán giả lần đầu qua vai diễn trong phim Siavash in Persepolis của đạo diễn Fereydoun Rahnema vào năm 1965. Sau đó, bà tiếp tục theo học ngành điện ảnh tại London và New York, trước khi trở lại Iran để thực hiện phim đồ án tốt nghiệp, với mong muốn để làm ra một bộ phim “đậm chất Iran. Để có kinh phí thực hiện dự án, bà đã thỏa thuận với nhà sản xuất Barbod Taheri, người cũng đảm nhận vai trò quay phim cho The Sealed Soil để đổi lấy sự hỗ trợ của bà cho một loạt phim truyền hình dài tám tiếng, chuyển thể từ truyện cổ tích Ba Tư.
The Sealed Soil được quay trong vòng sáu ngày tại làng Ghalleh Noo-Asgar ở phía tây nam Iran, là một tác phẩm tinh tế nhưng đầy sâu sắc trải nghiệm của cô gái mười tám tuổi tên Rooy-Bekheir, do diễn viên Flora Shabaviz thủ vai, lớn lên trong làng quê hẻo lánh của mình. Bộ phim mô tả nhịp sống thường ngày của cô - từ rửa bát dưới dòng sông, sàng lọc thóc đến hái cây cỏ - trong khi liên tục từ chối những lời tán tỉnh nài nỉ của các chàng trai trong làng. Khi dân làng được yêu cầu rời bỏ những gian nhà bùn để chuyển đến một thành phố mới được xây dựng, Rooy-Bekheir đã từ chối và quyết định lang thang một mình dọc bờ sông. Trong nỗi cô đơn vô cùng ấy, cô trải qua một cơn suy sụp cảm xúc tột cùng, khiến dân làng tin rằng cô đã bị nhập vong, dẫn đến việc họ đã thực hiện nghi lễ trừ tà nhằm chữa trị “căn bệnh” của cô.
The Sealed Soil không đi theo lối kể chuyện tuyến tính mà lựa chọn cách diễn đạt bằng hình ảnh để phản ánh tâm trạng của nhân vật nữ trong bối cảnh xã hội bị áp chế bởi quyền lực chính trị. Bộ phim gợi nhớ đến Jeanne Dielman, 23 quai du Commerce, 1080 Bruxelles (1975) của Chantal Akerman qua cách miêu tả cuộc sống thường nhật lặp đi lặp lại và đầy nhàm chán của nhân vật chính, bị cuốn vào guồng quay của công việc nội trợ.
Tương tự, The Sealed Soil cũng dõi theo những khoảnh khắc lặp lại trong sinh hoạt hằng ngày của Rooy-Bekheir. Các cảnh quay tĩnh kéo dài được bố trí trong không gian của những ngôi nhà đất và sân đất, ghi lại hình ảnh phụ nữ đang nấu ăn trên sàn, nướng bánh trong lò chung, giặt quần áo và cầu nguyện. Việc tập trung vào những công việc thường nhật phản ánh cùng một mối quan tâm với Akerman: khám phá sự đơn điệu và cô lập trong đời sống nội trợ, đồng thời làm nổi bật những lao động âm thầm, bị xem là tầm thường nhưng lại chi phối toàn bộ sự tồn tại của người phụ nữ trong đời sống hàng ngày.
Mỹ thuật The Sealed Soil tối giản nhưng chuẩn xác. Mỗi khung hình đều được dàn dựng một cách tỉ mỉ, cho phép câu chuyện khoảng thở cũng như giãn nở, dẫn dắt người xem vào chất thơ tĩnh lặng của những không gian và cử chỉ đời thường. Với những khoảng lặng và sự tiết chế trong biểu đạt, bộ phim trở thành một sự chiêm nghiệm qua hình - mà trong đó khí quyển của phim chiếm tầm quan trọng hơn là cốt truyện, sự thinh lặng quan trọng hơn là thoại, và những sự hiện diện hơn là các quy ước kịch tính thông thường. Bộ phim gợi mở một tâm thái trầm tư, nhìn nhận những điều thường nhật qua thi pháp của thời gian, sự chú ý và thinh lặng.
Một trong những ảnh hưởng lớn đến với mỹ học của phim đến từ những bức tiểu họa trong truyền thống nghệ thuật Ba Tư – những bức tranh đậm tính chất tự sự, nổi bật với những màu sắc rực rỡ, phối cảnh phẳng và chi tiết tinh xảo. Dù với kích thước nhỏ, thế những tác phẩm vẫn truyền tải được không gian cùng chiều sâu rộng lớn dẫn dắt người xem vào những thế giới hư cấu. Tương tự, The Sealed Soil diễn ra trong những không gian giới hạn, thế nhưng nó lại mở ra một chiều kích rộng lớn hơn trong câu chuyện thông qua bố cục ảnh tỉ mỉ, phần nào cũng giống như cách những bức tiểu họa có thể bao hàm vô vàn những thế giới khác nhau trong một khung hình duy nhất.
Bộ phim tập trung vào mâu thuẫn trọng yếu giữa truyền thống và hiện đại trong bối cảnh quốc gia. Trong một cảnh phim quan trọng, những nhân vật nam giới tụ lại về trước tiền cảnh khung hình, nhấn mạnh tính độc quyền của nam giới trong việc ra quyết định cho cộng đồng thôn làng. Là những người duy nhất có tiếng nói, họ bàn bạc về tương lai của ngôi làng, với trưởng làng kêu gọi dân cư rời bỏ những ngôi nhà bùn truyền thống để chuyển đến Shahrak, một khu thành phố mới được xây dựng trong vùng. Phân cảnh này không chỉ thể hiện những ma sát giữa truyền thống nông thôn và những thế lực của sự hiện đại hóa mà còn cho thấy sự bài trừ trải nghiệm của người phụ nữ – những những vừa là lao động cũng như là đối tượng thường hay bị lề hóa trước những chuyển biến và chính trị.
Mỹ học của phim cũng thể hiện sự mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại này. Ánh sáng vàng ấm áp bao phủ những khung cảnh làng quê, gợi nên một vẻ thanh bình cũng như sự gắn bó sâu sắc với mảnh đất tổ tiên. Đối lập hoàn toàn với con đường dẫn đến thị trấn mới xám xanh.Sự chuyển đổi gam sắc không chỉ đánh dấu một thay đổi thình lình trong bối cảnh mà còn trong một trạng thái đứt gãy trong trải nghiệm con người. Âm thanh trong phim cũng thêm đó làm nổi bật sự phân cách này: quan âm nhẹ nhàng, tự nhiên của làng xã – giữa tiếng gà kêu, tiếng bánh xe gỗ kẽo kẹt, tiếng chuyện trò rì rầm – đột ngột bị phá vỡ bởi những tiếng động vang rỗng của máy móc công nghiệp, báo hiệu một lối sống mới dần cận kề.
Về mặt bố cục, những cảnh phim trong làng thường đặt các chủ thể người chung trong khuôn như những cụm tập thể thân mật, các cử chỉ của họ đan xen lẫn nhau như những sợi chỉ thuê dệt; thế nhưng ở trong thành phố họ lại thường bị cô lập, lọt thỏm giữa những kiến trúc và máy móc đồ sộ, lạc lõng giữa sự vô danh chốn đô thị. Sự tương phản trong ánh sáng, âm thanh, màu sắc và bố cục từ đó làm nổi bật điểm những khác biệt về cảm xúc và ăn hóa ở hai thế giới.
Thế nhưng nhân vật chính của bộ phim, Rooy-Bekheir, lại chọn con đường kháng cự, không chỉ chống lại làn sóng hiện đại hóa mà còn phản đối những truyền thống gia trưởng đã ăn sâu trong nếp sống làng quê. Việc cô kiên quyết ở lại vùng nông thôn, đồng thời bác bỏ quyền lực của các bô lão nam giới trong làng, thể hiện một sự phản kháng kép - vừa chống lại sự tiến bộ do nhà nước áp đặt lẫn những giữa hạn với quy chuẩn giới trong xã hội. Nỗ lực cố gắng học đọc của cô thể hiện một mong muốn được tự chủ về kiến thức cá nhân. Chúng ta cũng nhận thấy rõ được điều này trong việc cô từ chối sử dụng giếng nước mới của thành phố – một hình ảnh biểu trưng cho sự đô thị hóa. Sự vắng bóng của phụ nữ trong các quyết định tập thể trong làng càng khiến cô quyết tâm hơn, tinh thần phản kháng của cô thế nhưng không phải xuất từ sự thiếu hiểu biết, mà từ một mối sự gắn bó linh thiêng với mảnh đất cùng một khát khao để được tự quyết cuộc đời mình. Qua sự nổi loạn thầm lặng của cô, bộ phim khắc họa sâu sắc hình ảnh một người phụ nữ đang âm thầm khẳng định quyền tự chủ, chống lại những thể chế đang lề hóa cô. The Sealed Soil bởi thế trở thành một thi phẩm tinh tế nhưng sâu sắc về bản thể nữ giới, phác họa nên một chân dung về người phụ nữ kiên quyết không để xã hội định đoạt vị trí của mình.
Chính lối diễn xuất tối giản của Flora Shabaviz tạo nên cốt lõi nghệ thuật và cảm xúc cho bộ phim. Cũng tương tự như nhân vật chính trong tác phẩm Jeanne Dielman, cô có rất ít thoại, gương mặt vô cảm, cùng cảm xúc xa cách, thế nhưng lại giúp truyền tải được những gánh nặng tinh thần của nhân vật. Cô một cách đều đặn, tựa như đang đọc hát, thường hay ngừng nghỉ giữa những khoảng lặng kéo dài càng tăng chất thiền định của bộ phim. Mỗi cử chỉ nhỏ thế nhưng đều để lại dấu ấn nữ quyền sâu sắc trong mạch phim. Diễn xuất của Shabaviz phần nào giống như một hình thức trình diễn đương đại hơn là diễn xuất truyền thống càng xóa nhòa ranh giới giữa “diễn xuất” và “hiện diện”. Đạo diễn Nabili thường đặt cô trong các khung hình đơn độc, nhấn mạnh sự hiện diện cô liêu – vừa hiện thực, vừa siêu thoát. Sự hòa quyện giữa sự mềm mỏng và vẻ tự chủ nơi Shabaviz đã trao cho nhân vật một sức mạnh lặng lẽ cùng sự giải phóng thể xác. Những cú máy dài và bố cục tĩnh lặng càng làm nổi bật đời sống nội tâm của cô, biến sự hiện diện ấy trở thành điểm tựa thị giác cho những chủ đề xuyên suốt của bộ phim: quyền tự chủ, sự kháng cự, và vẻ đẹp tĩnh tại mang tính thi ca.
Trong hồi kết của bộ phim, khi dân làng bắt đầu cho rằng việc từ chối những lời cầu hôn của Rooy-Bekheir là dấu hiệu cho thấy cô bị một vong hồn (jinni) nhập. Sau cơn suy sụp tinh thần của cô, tập thể dân làng đã lập tức cho làm một lễ trừ tà, thúc giục trưởng làng phải “làm sạch” cô khỏi những ma lực siêu nhiên mà họ tin là đang chi phối cô. Một nhóm phụ nữ mặc cho cô một chiếc váy trắng và buộc cô phải ngồi cạnh bếp lò trong khi họ đốt đi quần áo của cô - một hành động biểu trưng cho sự thanh tẩy khỏi những bản sắc cá nhân và tinh thần phản kháng của cô. Nghi lễ này trở thành minh chứng cho nỗ lực của xã hội trong việc điều chỉnh, khuất phục những ai dám đi ra chuẩn mực, bằng cách ép buộc cơ thể phải tuân theo những nguyện vọng của tập thể.
Thế nhưng, ở những khoảnh khắc cuối cùng, bộ phim dường như lại cho thấy rằng mọi nỗ lực nhằm thuần hóa Rooy-Bekheir thực chất đều mơ hồ và khó khả thi. Khi một người phụ nữ khác đến gần để nói với cô về một người đàn ông có ý định hỏi cưới, Rooy-Bekheir vẫn giữ thái độ thờ ơ, tập trung vào những công việc thường ngày như đãi gạo, chăm lo cho những sinh hoạt nhỏ trong gia đình. Cô bê một chiếc mâm, giống trong cảnh mở đầu phim, rồi lặng lẽ bước đi, một lần nữa rời xa đám đông phụ nữ và lặng lẽ băng qua những con đường làng. Trong cú máy dài ấy, hình ảnh Rooy-Bekheir bước đi một mình, tuy bên ngoài có vẻ cam chịu, nhưng lại toát lên khí chất bất khả xâm phạm, kiên định đến cùng. Chính tại đây, đạo diễn Nabili đã khắc họa nên một chân dung nữ quyền nơi nhân vật mình: một người phụ nữ không khuất phục trước bất kỳ ai hay điều gì, kể cả trước những thế lực xã hội đối nghịch đang cố gắng kiểm soát và áp đặt lên cô.
The Sealed Soil vì thế là một sự khám phá đầy mê hoặc về sự thinh tĩnh, sự giam cầm, về những bất an nội tại trong thể chế gia đình, cùng với khả dĩ thầm lặng cho một sự cứu rỗi. Qua những cú máy dài và sự tĩnh lặng được bài trí cẩn thận, tác phẩm mời khán giả đến một trải nghiệm duy vật chất trong điện ảnh; của trọng lượng thời gian, trong nhịp điệu thiền định và sức kéo của mỹ học, từ đó mang đến ý nghĩa sâu sắc cho khái niệm điện ảnh nữ quyền. Là một tác phẩm hiếm hoi về vẻ đẹp và sự phản kháng âm thầm, The Sealed Soil nổi lên như một viên ngọc sáng trong kho tàng điện ảnh cổ điển và nghệ thuật Iran, minh chứng cho sức mạnh bền bỉ của nữ quyền trên màn ảnh.
------------------------
Lược dịch bởi All About Movies từ bài viết “Echoes of Rebellion, Seeds of Freedom, and the Indomitable Woman” của Tania Ahmadi về bộ phim The Sealed Soil (1977) bởi đạo diễn Marva Nabili, được đăng tải trên trang tạp chí Sabzian vào ngày 25.06.2025
Ủng hộ All About Movies
Đóng góp cho các tay viết của AMO
hàng tháng
chỉ từ 10K VNĐ