phân tích

DAUGHTER FROM DANANG: THẤT LẠC GIỮA HÒA BÌNH

Người viết: Quốc Trần

img of DAUGHTER FROM DANANG: THẤT LẠC GIỮA HÒA BÌNH

Chiến tranh không chỉ chia cắt đường biên giới của các quốc gia trên bản đồ, chia rẽ những đất nước hay tổ chức chính trị tham chiến, mà nó còn đẩy gia đình của những người dân thường vào cảnh chia ly. Đó là bản chất của chiến tranh, cho dù nó đã xảy ra hàng thập kỷ trước hay vẫn đang bùng cháy tại nhiều nơi ngay chính thời điểm này. Thế nhưng, giữa sự tàn phá và chia cắt của bạo lực vẫn tồn tại một bản tính của loài người là niềm mưu cầu được tìm thấy nhau sau khi bị chia ly và tách rời. Nhân dịp 50 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30/4/1975, cùng nhìn lại một câu chuyện của một cặp mẹ-con gái đã tìm thấy nhau sau 22 năm kể từ năm 1975, để rồi lại biệt ly trong nỗi ân hận.

Bộ phim tài liệu Daughter from Danang (2002) của đạo diễn Gail Dolgin và Vicente Franco là một bức họa đầy ám ảnh về những vết thương chiến tranh còn dai dẳng, sự khác biệt văn hóa và những bản sắc bị chia cắt. Kể về một cuộc đoàn tụ giữa một người mẹ Việt Nam và cô con gái thất lạc từ lâu, bộ phim tài liệu này là một minh chứng sâu sắc về những rạn nứt mà chiến tranh gây ra – không chỉ giữa các quốc gia, mà còn trong gia đình và tâm lý cá nhân.

Giành giải Grand Jury Prize cho Phim tài liệu xuất sắc nhất tại Sundance và được đề cử Oscar 2003 cho Phim tài liệu hay nhất, Daughter from Danang theo chân cuộc hội ngộ đầy thử thách giữa Heidi Bub (tên khai sinh: Mai Thị Hiệp) – một người phụ nữ lai Mỹ-Việt lớn lên ở vùng quê Tennessee – và mẹ ruột của cô, bà Mai Thị Kim, sau 22 năm xa cách. Những gì diễn ra không phải là sự hàn gắn như cả hai từng mơ tưởng, mà là một cuộc va chạm dữ dội giữa khác biệt văn hóa, những tổn thương chưa từng thổ lộ và gánh nặng vô hình mà những con người ly tán vì chiến tranh luôn phải mang theo bên mình.

Hành trình của Heidi bắt đầu vào năm 1975, giữa những ngày cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, thống nhất đất nước. Lo sợ lời đồn con lai Mỹ sẽ bị trả thù, bà Kim đã gửi con gái bảy tuổi của mình, Mai Thị Hiệp, theo Chiến dịch Không vận Trẻ em (Operation Babylift)—một chương trình di tản trẻ em Việt Nam do Mỹ thực hiện, dù nhiều em trong số đó không thực sự là trẻ mồ côi. Dưới danh nghĩa nhân đạo, chương trình này thực chất đã buộc nhiều bậc cha mẹ phải từ bỏ con mình với lời hứa hẹn về sự an toàn và một ngày nào đó sẽ được đoàn tụ.

Heidi được nhận nuôi bởi một người mẹ đơn thân nghiêm khắc tại Pulaski, Tennessee - một thị trấn mang nặng lịch sử phân biệt chủng tộc và là nơi khai sinh của tổ chức cổ xúy thuyết người da trắng thượng đẳng Ku Klux Klan. Tại đây, mẹ nuôi của Heidi đặt cho cô một cái tên mới, buộc cô chối bỏ nguồn gốc Việt Nam và tự giới thiệu bản thân rằng cô được “sinh ra ở South Carolina.” Heidi lớn lên với giọng miền Nam Hoa Kỳ đặc sệt và đã bị “Mỹ hóa 101%” đúng theo mong đợi của mẹ nuôi. Nhưng đằng sau lớp vỏ hòa nhập ấy vẫn luôn là một khoảng trống – nỗi khao khát tình yêu vô điều kiện và sợi dây kết nối với người mẹ chỉ còn tồn tại như một bóng ma quá khứ đầy mơ hồ trong cô. Sự xóa sổ văn hóa mà cô phải trải qua phản ánh sự lãng quên rộng lớn hơn đối với những đứa trẻ lai Mỹ-Việt trong xã hội Mỹ hậu chiến – một khoảng trống mà ít phim tài liệu nào khám phá.

Năm 1997, sau hơn hai thập kỷ chia cách, Heidi trở về Việt Nam để gặp lại mẹ ruột. Các nhà làm phim đồng hành cùng cô trong chuyến đi này đã ghi lại những khoảnh khắc vui mừng nhưng cũng đầy xót xa. Cuộc gặp gỡ đầu tiên tại sân bay Đà Nẵng diễn ra tựa như một cơn bão của những xúc cảm bị kìm nén của một người mẹ đã bị lạc mất con trong 22 năm. Bà Kim bật khóc nức nở khi ôm lấy người con gái từng thân thuộc nhưng cũng đầy xa lạ. Tiếng khóc của bà là sự hòa trộn giữa hạnh phúc và nỗi đau tích tụ qua nhiều thập kỷ, trong khi Heidi vẫn còn chút bối rối cố gắng tiếp nhận cơn sóng cảm xúc của người mẹ. Những khoảnh khắc đầu tiên tràn đầy hy vọng, khi cả hai đều tin rằng cuộc đoàn tụ này sẽ chữa lành những vết thương cũ và lấp đầy khoảng trống của thời gian đã mất.

Ban đầu, cuộc gặp gỡ có vẻ như là một phép màu trong mơ, là một nhịp cầu nối liền hai bờ thời gian và không gian. Nhưng những rạn nứt sớm xuất hiện và biến giấc mơ đó thành một cơn ác mộng chỉ sau một tuần Heidi về thăm gia đình ruột thịt. Vì bất đồng ngôn ngữ, bà Kim và những người anh chị trong nhà hầu như chỉ nói được câu “mẹ thương con” hay “chị Hiền thương em Hiệp.” Đây là một nỗ lực có phần bất lực để bày tỏ tình cảm vượt qua rào cản ngôn ngữ với một người khi ra đi chỉ là một cô bé 7 tuổi mà khi gặp lại đã là mẹ của hai đứa con thơ.

Để lấp lại khoảng cách này, gia đình Việt Nam của Heidi bày tỏ tình thương thông qua những cái ôm và nụ hôn. Nhưng thứ ngôn ngữ tình yêu này sớm trở thành một cực hình đối với cô: “Tôi không được nuôi dạy trong một gia đình có nhiều tình thương và ôm ấm, còn ở đây dường như mọi người họ hàng luôn muốn chạm vào người tôi.” Vốn quen với lối sống chủ nghĩa cá nhân của Mỹ và sự thiếu tình thương gia đình của mẹ nuôi, cô cảm thấy ngột ngạt trước sự gần gũi quá mức của gia đình mẹ ruột. Cô cảm thấy vai trò của cả hai bị đảo ngược, như thể “tôi (Heidi) là người mẹ còn người mẹ lại là đứa con vậy” khi bà Kim luôn muốn gắn liền với Heidi như hình với bóng trong từng giờ phút mỗi ngày.

Xung đột của bộ phim đạt đỉnh điểm vào ngày cuối của Heidi tại Đà Nẵng. Trước khi về lại Mỹ, những người anh của cô đã bày tỏ mong muốn Heidi phụng dưỡng mẹ già: “Trong thời gian 22 năm, mẹ không biết tin tức của em. Anh với các chị của em đã lo cho mẹ cuộc sống như vậy. Giờ biết em rồi nên anh mong em có trách nhiệm của người con đối với mẹ.” Anh mong cô có thể đưa mẹ mình sang Mỹ để chăm sóc, nếu không được thì có thể hằng tháng gửi tiền về nhà để nuôi mẹ. Nghe thấy vậy, Heidi vỡ òa trong trong cơn sốc khi một cuộc đoàn tụ với mục đích đi tìm lại tình thương bị cướp mất của cô lại nhanh chóng trở thành một trách nhiệm vật chất đè nặng lên vai.

Nước mắt dàn dụa, Heidi nức nở nói: “Tôi muốn về nhà, trốn thoát khỏi thế giới này để trở về với nơi thân thuộc với tôi. Đôi khi tôi ước rằng tôi có thể quay ngược thời gian và xóa mọi điều đã xảy ra, Tôi ước tôi có thể giữ nguyên những kí ức vui tươi. Tôi ước chuyến đi này chưa từng diễn ra bời vì giờ đây tôi sẽ phải sống cùng với những kí ức xấu xí và cảm xúc tồi tệ này.” Đôi lúc, tình cảm gia đình đẹp nhất là khi ta nhìn nó từ xa, khi ký ức thật chỉ chiếm một nửa, còn lại được lấp đầy bởi mộng tưởng của bản thân về thứ tình cảm phức tạp đó.

Hành trình gắn kết ruột thịt sau 22 năm bị chia cắt bắt đầu với những giọt nước mắt vui sướng tột cùng, lại có cái kết thấm đẫm những giọt nước mắt ân hận và tủi đau của cả bà Kim và Heidi. Sự rạn nứt này không đến từ lỗi lầm của cá nhân nào, và các đạo diễn cũng không đổ lỗi cho bất kì ai. Thay vào đó, họ cho thấy cách mà các chuẩn mực văn hóa đã ăn sâu vào mỗi người, ảnh hưởng đến cách họ nhìn nhận tình cảm và bổn phận. Heidi không phải là một người Mỹ ích kỷ bị choáng ngợp bởi cảnh tượng nghèo khó của gia đình mẹ ruột; cô là sản phẩm của một xã hội đề cao chủ nghĩa cá nhân. Tương tự, gia đình bà Kim không phải là những người cơ hội mà là những người sống theo giá trị truyền thống Việt Nam, nơi sự nương tựa trong tập thể là một lối sống lâu đời. Bi kịch thật sự của phim nằm ở sự bất lực của cả hai bên trong việc thu hẹp khoảng cách này – một lỗi lầm không bắt nguồn từ ác ý mà từ những vết thương chưa lành của một cuộc đời ly biệt.

Sức mạnh của Daughter from Danang nằm ở cái kết không trọn vẹn. Giấc mơ của Heidi về một bức tranh được ghép lại hoàn chỉnh vẫn dang dở, cũng như mong muốn đoàn tụ của bà Kim tan biến vào những bức thư dở dang không nhận được lời hồi đáp từ con. Bóng ma của chiến tranh len lỏi vào từng khoảnh khắc, không phải trên chiến trường, mà trong những mảnh đời rạn nứt mà nó để lại. Chiến dịch Không vận Trẻ em, dù được ca ngợi như một hành động nhân đạo, lại trở thành biểu tượng của những hệ lụy không lường trước: những đứa trẻ bị cắt đứt khỏi cội nguồn, những người mẹ mang mặc cảm tội lỗi suốt đời, và một di sản của sự chia cắt kéo dài qua nhiều thế hệ.

Thông điệp cốt lõi của Daughter from Danang không chỉ về sự chia rẽ trong một gia đình mà là một lời nhắc nhở về cái giá con người phải trả cho chiến tranh. Cuộc chiến đó có thể đã kết thúc trên chiến trường, nhưng hệ quả của nó vẫn tiếp tục ám ảnh những cuộc đời như Heidi và bà Kim. Chiến dịch Không vận Trẻ em đã chia cắt hàng nghìn đứa trẻ khỏi gia đình với lời hứa về một tương lai tốt đẹp hơn, nhưng thực tế lại đẩy nhiều người Mỹ gốc Việt như Heidi vào những cuộc đấu tranh kéo dài suốt đời với danh tính và nỗi đau không được thừa nhận.

Bộ phim tài liệu này phần nào đó gợi tôi liên tưởng đến quyển tiểu thuyết bán tự truyện Một Thoáng Ta Rực Rỡ Ở Nhân Gian của tác giả người Mỹ gốc Việt Ocean Vương. Tác phẩm phản chiếu nỗi đau âm ỉ kéo dài liên thế hệ bị gây ra bởi cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam. Tập truyện này được viết dưới dạng một bức thư nhân vật chính viết cho mẹ, kể lại câu chuyện về lịch sử gia đình – một lịch sử hằn sâu nỗi đau của bạo lực, mất mát, xung đột và sự xa lạ – trong bối cảnh chiến tranh tại Việt Nam. Người mẹ này là con gái của một phụ nữ Việt Nam và một lính Mỹ. Vì thế, cậu nhìn nhận bản thân như một đứa con của chiến tranh – một nghịch lý khi được sinh ra từ chính thứ được tạo ra để hủy diệt, để giết chóc. Đó là một cuộc chiến không chỉ chia cắt quốc gia mà còn xé nát con người và danh tính của họ.

Trong cuốn tiểu thuyết này, tác giả Ocean Vương còn đặt ra một câu hỏi chất chứa một nỗi buồn mơ hồ về cái kết của chiến tranh: “Khi nào thì một cuộc chiến mới kết thúc? Khi nào con có thể gọi tên mẹ mà nó chỉ đơn thuần là tên mẹ, chứ không phải tất cả những gì mẹ đã bỏ lại phía sau?” Chiến tranh không thực sự kết thúc bằng một hiệp ước; nó tiếp tục lan tỏa qua nhiều thập kỷ, làm biến dạng danh tính và mối quan hệ của những người liên quan. Hành trình của Heidi –giằng xé giữa bản sắc Mỹ và di sản Việt Nam – phản chiếu trải nghiệm chung của nhiều thế hệ người Việt hải ngoại: một cuộc tìm kiếm không ngừng nghỉ về cảm giác được thuộc về, nơi mà “quê hương” chỉ còn là ký ức hoặc một ảo ảnh xa vời. Bộ phim buộc người xem phải đối diện với những sự thật đau đớn: rằng tình yêu và nỗi đau thường đan xen, và rằng sự hàn gắn đôi khi đòi hỏi ta phải bước qua những hố sâu nội tâm rộng hơn cả một đại dương.

Bộ phim không chỉ là câu chuyện của một người mẹ và con gái, mà còn là một sự suy ngẫm về khao khát thuộc về và được chấp nhận – những khao khát thường bị cản trở bởi những thế lực vượt ngoài tầm kiểm soát của con người. Daughter from Danang là một bức chân dung không thể quên về tình yêu bị thời gian và lịch sử làm xói mòn, là một bộ phim nhắc nhở chúng ta rằng có những vết thương sẽ không bao giờ lành, nhưng vẫn cần được chứng kiến và thấu hiểu.

Đã 50 năm trôi qua kể từ ngày Thống nhất đất nước, và 23 năm kể từ khi Daughter from Danang được công chiếu – một khoảng thời gian tương đương với thời gian bị chia cắt của Heidi và bà Kim, song mối quan hệ hiện tại giữa cô và người mẹ ruột vẫn còn là một bí ẩn. Sau những bức thư không được hồi âm ở cuối phim, liệu Heidi và bà Kim có đủ can đảm và lòng thấu cảm để gặp lại nhau lần nào nữa không? Hay họ đã lạc mất nhau trong cơn dư chấn của chiến tranh để lại, và chấp nhận sống tiếp cuộc đời mình với một câu chuyện vẫn còn dang dở về một người máu mủ nhưng cũng đầy xa lạ? Những câu hỏi “liệu rằng?” luôn là thứ đọng trên bờ lưỡi của ta khi nói về các sự kiện lớn không chỉ có thể thay đổi cuộc đời của những cá nhân mà còn vận mệnh của cả một dân tộc, khi mà chính những nạn nhân của chiến tranh bị lạc trong chính câu chuyện họ tự kể cho chính mình và con cháu sau này.


Ủng hộ All About Movies

Đóng góp cho các tay viết của AMO
hàng tháng chỉ từ 10K VNĐ

amo