phân tích
SỰ SUY TÀN CỦA ĐIỆN ẢNH
Người viết: Mai Thị Tâm Nguyên
(Dịch từ bài luận của nhà văn Susan Sontag vào năm 1996)
Trăm năm điện ảnh dường như mang hình bóng của một vòng đời: sự khởi nguồn tất yếu, dẫn đến những tháng ngày vươn đến đỉnh vinh quang, để rồi chôn vùi danh vọng dưới nấm mồ suy tàn đáng hổ thẹn. Điều đó không có nghĩa là giờ đây ta không thể kỳ vọng vào các tác phẩm mới ra lò đầy chất lượng. Thế nhưng giữa thời đại ngày nay, những bộ phim kiệt xuất như vậy không nên chỉ là ngoại lệ hy hữu – và thực lòng mà nói, tất cả những gì vĩ đại nhất của nghệ thuật cũng không thể chỉ là vi tế. Chúng phải lồng lộng uy nghi, phải hiện lên như một làn sóng cách mạng, một sự thách thức đầy quả cảm trước các chuẩn mực và lề lối cổ hủ hiện đang chi phối việc làm phim ở khắp mọi nơi trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, những tác phẩm tầm thường, những bộ phim được làm ra đơn thuần với mục đích mua vui giải trí (tức, thương mại), thì lại vô cùng ngớ ngẩn; và phần lớn đều thất bại thảm hại trong việc thu hút lượng khán giả tiềm năng. Trong khi đích đến cuối cùng của mỗi bộ phim chân chính đều là trở thành một kiệt tác nghệ thuật có một không hai, thì điện ảnh thương mại ngày nay đã rẻ rúng chấp nhận ngả mũ trước lối làm phim “vắt sữa” bành trướng, tạo ra các tác phẩm phái sinh, một thứ nghệ thuật lai căng đầy trắng trợn, với hy vọng đào bới lại những hào quang của một thời vang bóng. Điện ảnh, từng được ngợi ca là tinh hoa của thế kỷ XX, giờ đây đang biến tướng thành một thứ nghệ thuật suy đồi khi thế kỷ này sắp khép lại.
Có lẽ không phải điện ảnh đích thực đã chết đi mà chính cinephilia – tình yêu điện ảnh, mới đến ngày diệt tận. Bộ môn nghệ thuật nào cũng đều phải được nuôi dưỡng, xiển dương bởi những tín đồ chân chính. Tuy nhiên, tình yêu với điện ảnh mới dị biệt làm sao. Đam mê ấy được nảy sinh từ niềm tin rằng điện ảnh là một bộ môn nghệ thuật không giống với bất kỳ loại hình nào khác: một làn gió của tinh hoa tân kỳ; dễ tiếp cận một cách đặc biệt; vừa thơ mộng vừa bí ẩn, vừa trần trụi, gợi cảm, vừa mực thước, thanh tao. Điện ảnh có cho mình những tông đồ. (Giống như tôn giáo vậy.) Điện ảnh chính là một cuộc thập tự chinh đầy bi tráng. Đối với những con người yêu điện ảnh, phim ảnh là phép màu gói gọn mọi thứ. Điện ảnh vừa là cuốn sách nghệ thuật vừa là trang văn cuộc sống.
Như ta đã hay, dấu mốc khai sinh của ngành làm phim cách đây cả trăm năm là một sự khởi đầu kép. Vào khoảng năm 1895, hai thể loại phim khác nhau đã được tạo ra, hai phương thức điện ảnh đã đồng giáng thế: đó là điện ảnh như sự sao y cuộc sống thực tại khách quan, không hề được dàn dựng – tiên phong bởi anh em nhà Lumiere; và điện ảnh như sản phẩm của sự sáng tạo, của những ảo mộng và trí tưởng tượng phong phú với cha đẻ là Georges Méliès. Thế nhưng không tồn tại sự đối nghịch hoàn toàn giữa hai phương thức tưởng như dị biệt này. Điều cốt lõi chính là đây. Đối với thế hệ khán giả đầu tiên trong lịch sử, thì tác phẩm “The Arrival of a Train at La Ciotat Station” của anh em nhà Lumiere – một bản sao y cuộc sống thực rất đỗi bình thường, lại là một trải nghiệm phi thường, tuyệt diệu. Điện ảnh được khởi nguồn từ cái “phi thường” ấy, từ cảm xúc ngỡ ngàng, ngạc nhiên rằng thực tế đời sống có thể được sao chép lại một cách tức thời như vậy. Toàn bộ tinh hoa điện ảnh đến mãi về sau là nỗ lực cố công để đem lại cảm xúc mê hoặc, ngỡ ngàng ban sơ ấy.
Mọi thứ trong điện ảnh đều bắt nguồn từ khoảnh khắc đó, từ 100 năm trước, từ hình ảnh đoàn tàu tiến vào ga trên thước phim của anh em nhà Lumiere. Con người thể nhập trong thước phim đơn sơ, để rồi reo lên phấn khích, cúi mình thán phục khi thấy đoàn tàu chuyển động như thể đang tiến về phía họ. Về sau, sự ra đời của truyền hình đã làm các rạp chiếu phim trở nên trống trải, thế nhưng chính những chuyến phiêu du tới rạp chiếu phim hàng tuần đã dạy ta học (hay là bắt chước) cách rảo chân bước đi, cách phì phèo điếu thuốc, cách hôn đậm sâu, dạy ta cách vươn mình chiến đấu, dạy ta biết rung cảm, đau buồn. Phim ảnh đã đưa cho ta những mẹo vặt để trở nên thật cuốn hút tựa như các minh tinh màn bạc. Ví dụ như cách mặc áo mưa sao cho thật quyến rũ ngay cả khi trời không mưa. Thế nhưng, bất cứ mẹo vặt mà ta tích luỹ được từ những thước phim cũng chỉ là một phần nhỏ bé giữa muôn vàn trải nghiệm vĩ đại về việc đắm mình vào dòng chảy, vào sự sống chung của toàn nhân loại. Đó là khát khao được thấu cảm với nhân sinh, khát khao được hoà mình giữa muôn trùng hiện sinh, sự sống, được hiểu những gương mặt ta chưa từng quen. Đây là những khát vọng cao cả, phi thường, gói gọn trong trải nghiệm xem phim. Bao la hơn thảy những gì ta muốn nhận lại từ những thước phim, chính là trải nghiệm phải hạ gươm đầu hàng, để rồi bị cuốn đi bởi những điều hiển hiện trên màn ảnh. Ta muốn bị bộ phim bắt cóc đi, và “bị bắt cóc” ở đây chính là trạng thái bị choáng ngợp bởi sự hiện diện vật lý của các hình ảnh. Trải nghiệm “đi xem phim” chính là một mảnh ghép trong chuyến phiêu du ly kì ấy. Chỉ thưởng thức một bộ phim xuất sắc trên truyền hình không có nghĩa là đã thực sự xem bộ phim đó. Ở đây ta không chỉ bàn đến vấn đề về kích thước hình ảnh - sự chênh lệch giữa màn ảnh lớn trong rạp và hình ảnh nhỏ thu nhỏ trên TV ở nhà. Việc thưởng thức phim tại không gian trong nhà dường như chưa đủ mãn nhãn và tôn kính với bộ phim đó. Màn hình chiếu phim trong gia đình có thể lớn bằng toàn tường phòng khách hoặc phòng ngủ, thế nhưng ta vẫn chỉ bị bao quanh bởi không gian nhà ở quen thuộc. Để bị bắt cóc, để linh hồn bị kéo đi bởi những thước phim, ta phải đặt mình nơi rạp chiếu, ngồi trong bóng tối u tịch giữa những người lạ mặt vô danh.
Bao nhiêu nước mắt khóc thương cũng nào có thể làm sống lại những vùng tâm linh nhiệm màu, gợi cảm và ưu tư đã biến mất nơi rạp chiếu phim huyền hoặc. Việc thoái thác điện ảnh chân chính thành những hình ảnh rẻ tiền gây sốc, việc thao túng hình ảnh một cách vô nguyên tắc, biến mọi thứ thành sự tiêu thụ nhanh đã sản sinh ra một loại hình nghệ thuật không có chiều sâu, vô hồn và không thèm đòi hỏi tư duy, tập trung cao độ của khán giả. Giờ đây, hình ảnh xuất hiện ở mọi kích thước và trên nhiều bề mặt khác nhau: trên màn hình của rạp, trên tường sàn nhảy và tại bức màn khổng lồ treo phía trên các đấu trường thể thao. Sự phổ biến rộng rãi của chuyển động hình ảnh đã dần dần làm suy yếu các tiêu chuẩn, mực thước điện ảnh mà người đời từng tuân theo với cả phim nghệ thuật lẫn phim giải trí.
Trong những tháng năm đầu tiên của điện ảnh, về cơ bản không tồn tại sự khác biệt nào giữa phim nghệ thuật và phim giải trí. Tất thảy các tác phẩm trong kỷ nguyên phim câm, từ những kiệt tác của bậc thầy Feuillade, D. W. Griffith, Dziga Vertov, Pabst, Murnau và King Vidor cho đến những bộ phim bi kịch, hài kịch mang nặng tính công thức, lại đều chứa đựng giá trị nghệ thuật rất cao so với hầu hết những bộ phim sau này. Với sự ra đời của âm thanh, việc tạo hình ảnh đã mất đi phần lớn sự siêu việt và thơ mộng vốn có, và các tiêu chuẩn thương mại bắt đầu được thắt chặt. Bước vào kỷ nguyên mới, bộ máy của Hollywood vươn lên thống trị ngành làm phim trong khoảng 25 năm (khoảng từ năm 1930 đến năm 1955). Những đạo diễn với phong cách độc đáo, kiệt xuất nhất giữa thời đại, như Erich von Stroheim và Orson Welles, đã bị bộ máy quyền lực kia đè bẹp và cuối cùng phải lưu vong nghệ thuật trên đất châu Âu - nơi mà ít nhiều vẫn tồn tại bộ máy tương tự Hollywood, với ngân sách thấp hơn; chỉ tại Pháp mới có một số lượng lớn các bộ phim xuất sắc được sản xuất trong suốt thời kỳ này. Theo tiến trình của lịch sử, vào giữa thập niên 50, những ý tưởng tiên phong về một làn sóng điện ảnh mới được manh nha, khởi nguồn cảm hứng từ những tác phẩm đầy chất thơ của Ý thời hậu chiến. Thế rồi, một số lượng lớn những bộ phim độc đáo, đầy nhiệt huyết, thấm đẫm linh hồn và giá trị nghệ thuật đã được khai sinh.
Giữa trăm năm điện ảnh, vào chính thời điểm nhiệm màu ấy, việc đi xem phim, tư duy về phim, luận bàn về phim đã trở thành niềm đam mê cháy bỏng của nhiều sinh viên đại học và những con người trẻ tuổi khác. Ta không chỉ thần tượng các tài tử, minh tinh mà còn đem lòng yêu chính điện ảnh. Cinephilia lần đầu xuất hiện trong lịch sử vào những năm 1950 ở Pháp, và diễn đàn của đam mê chính là tạp chí điện ảnh huyền thoại Cahiers du Cinema (tiếp sau đó là vô vàn các tạp chí cuồng nhiệt tương tự xuất hiện ở Đức, Ý, Anh, Thụy Điển, Hoa Kỳ và Canada). Làn sóng lan toả rộng khắp Châu Âu, Châu Mỹ, và đền thiêng của điện ảnh trở thành vô vàn các rạp chiếu phim, các câu lạc bộ chuyên về những bộ phim từ quá khứ, tổ chức các buổi chiếu phim đặc biệt tưởng niệm đạo diễn. Thập niên 60 và đầu thập niên 70 là thời kỳ sục sôi của việc đi ra rạp xem phim, với những tín đồ điện ảnh luôn mong ngóng, hy vọng tìm được chỗ ngồi càng gần màn hình lớn càng tốt, lý tưởng nhất là hàng ghế thứ ba ở giữa. Ta lại nhớ khoảnh khắc khi một nhân vật trong tác phẩm “Before the Revolution” (1964) của Bernardo Bertolucci đã dõng dạc tuyên bố: “Người ta không thể sống thiếu Rossellini”, - và ông thực sự toàn tâm toàn ý với lời thề ấy.
Trong vòng 15 năm, cứ mỗi tháng đều có những kiệt tác mới ra đời. Ôi, kỷ nguyên huy hoàng đó giờ đây xa vời biết bao! Một điều chắc chắn rằng sẽ luôn tồn tại xung đột giữa hai phạm trù - điện ảnh như một ngành công nghiệp và điện ảnh như một bộ môn nghệ thuật, hay điện ảnh như một lề lối, thói quen và điện ảnh như một chuyển phiêu du, thể nghiệm. Nhưng xung đột nảy sinh không phải là liều thuốc độc ngăn trở việc người đời sáng tạo ra một bộ phim kiệt xuất, cho dù đó là phim độc lập hay phim đại chúng. Còn giờ đây cán cân đã nghiêng hẳn về phạm trù: điện ảnh như một ngành công nghiệp. Di sản điện ảnh vĩ đại, đồ sộ của những năm 1960 và 1970 đã bị cự tuyệt. Ngay từ thập niên 70, Hollywood đã bắt đầu đạo văn và khiến cho những cải tiến trong phương pháp tường thuật và việc biên tập những bộ phim độc lập mới thành công của châu Âu và Mỹ bị coi là tầm thường. Tiếp theo đó là sự gia tăng thảm khốc về chi phí sản xuất phim vào thập niên 80, qua đó thiết lập lại các tiêu chuẩn của ngành công nghiệp sản xuất, phân phối phim theo lối cưỡng bức, khắc nghiệt hơn hẳn - lần này thực sự trên quy mô toàn cầu. Chi phí sản xuất tăng vọt đồng nghĩa với việc một bộ phim phải kiếm được nhiều tiền ngay tức thì trong tháng đầu tiên phát hành, nếu muốn có lãi. Điều này tạo nên xu hướng ủng hộ phim bom tấn hơn các phim kinh phí thấp, mặc dù hầu hết các phim bom tấn đều thất bại và luôn có một vài bộ phim “nhỏ” lại khiến mọi người ngạc nhiên vì sức hấp dẫn của chúng. Thời gian phát hành phim tại rạp ngày càng ngắn lại (giống như thời hạn sử dụng của các móc treo trong hiệu sách); nhiều bộ phim được thiết kế để phát trực tiếp dưới dạng video. Các rạp chiếu phim tiếp tục bị đóng cửa ở nhiều thị trấn, thậm chí có những nơi không còn một rạp nào vì phim ảnh dần trở thành một loại hình giải trí tại nhà như một thói quen.
Trên đất nước ta, việc hạ thấp kỳ vọng về chất lượng phim và sự gia tặng đột biến những tham muốn lợi nhuận đã khiến nhiều đạo diễn Mỹ tài ba như Francis Ford Coppola và Paul Schrader hầu như không thể làm việc hết mình. Ở nước ngoài, ta có thể nhìn thấy sự tàn hoại ấy qua số phận bi thảm của một số vị đạo diễn vĩ đại nhất trong những thập kỷ qua. Ngày nay, còn chốn nào dung thân cho người nghệ sĩ lập dị Hans-Jurgen Syberberg, vì làn sóng thời đại mà đã từ bỏ làm phim, hay cho Godard vĩ đại một thời vang bóng – giờ đây đang oằn mình làm ra những bộ phim về lịch sử điện ảnh xưa cũ qua băng video. Ta hãy mở rộng góc nhìn với những câu chuyện đau lòng khác. Việc quốc tế hóa tài chính đã gây ra thảm họa khủng khiếp cho Andrei Tarkovsky trong hai bộ phim cuối cùng trong sự nghiệp vĩ đại và đầy bi tráng của ông. Và hỡi Aleksandr Sokurov, ông sẽ kiếm đâu ra tiền để tiếp tục làm ra những bộ phim kiệt xuất, trong điều kiện khắc nghiệt của chủ nghĩa tư bản Nga?
Có thể đoán trước rằng tình yêu điện ảnh đã cảnh báo ta. Mọi người vẫn thích đi xem phim, một số người vẫn quan tâm và mong đợi điều gì đó đặc biệt, chất lượng từ một bộ phim. Những bộ phim xuất sắc vẫn đang được tạo ra ngày ngày: “Naked” của Mike Leigh, “Lamerica” của Gianni Amelio, “Fate” của Fred Kelemen. Thế nhưng, giữa lớp trẻ ngày nay, ta hầu như không còn tìm thấy bóng hình của tình yêu điện ảnh, một đam mê đặc biệt dành cho phim ảnh, không đơn thuần chỉ là niềm yêu thích, mà còn là khiếu cảm thụ nhất định về điện ảnh. Và nó được nảy sinh dựa trên khát vọng lớn lao được nhìn ngắm, được chiêm ngưỡng càng nhiều càng tốt những di sản, tinh hoa của một thời điện ảnh vang bóng. Bản thân tình yêu điện ảnh đã bị người đời chỉ trích, giễu nhại, như thể một điều gì đó kỳ quặc, lỗi thời vào ngạo mạn. Bởi lẽ tình yêu điện ảnh luôn mang ngụ ý rằng phim ảnh là những trải nghiệm kỳ diệu, nhiệm màu và có một không hai. Tình yêu điện ảnh cho ta tri kiến rằng phiên bản Hollywood làm lại tác phẩm “Breathless” không thể xứng tầm bản gốc của Jean-Luc Godard. Mỉa mai thay, tình yêu điện ảnh chẳng còn giữ vai trò gì trong kỷ nguyên phim siêu công nghiệp. Vì các cinephilia, các tín đồ điện ảnh chân chính giờ đây cũng chẳng thể tự mình đứng lên khẳng định phim ảnh như một đối tượng thơ ca, đậm chất nghệ thuật; và không thể khơi dậy khát khao làm phim trong những con người nằm ngoài ngành công nghiệp điện ảnh, như họa sĩ hay nhà văn. Chính xác là quan niệm này đã bị hạ gục.
Nếu cinephilia – tình yêu điện ảnh đã đến hồi diệt tận, thì phim ảnh cũng sẽ chết theo… bất kể có bao nhiêu bộ phim, thậm chí là những bộ phim rất xuất chúng vẫn tiếp tục được sản xuất. Nếu điện ảnh có thể được hồi sinh, thì phải thông qua sự ra đời của một loại tình yêu điện ảnh mới.
Ủng hộ All About Movies
Đóng góp cho các tay viết của AMO
hàng tháng
chỉ từ 10K VNĐ