phân tích

JAMES WONG HOWE: MỘT NHÀ QUAY PHIM ĐẦY QUẢ CẢM ĐƯỢC ĐỀN ĐÁP XỨNG ĐÁNG

Người viết: Giorgio

img of JAMES WONG HOWE: MỘT NHÀ QUAY PHIM ĐẦY QUẢ CẢM ĐƯỢC ĐỀN ĐÁP XỨNG ĐÁNG

Tác giả: Beatrice Loayza

Ảnh: Một cảnh trong phim Seconds (1966), được Wong Howe sử dụng wide-angle và một cái lens mắt cá.

Nhà quay phim người Mỹ gốc Hoa James Wong Howe (1899-1976) là một người cần cù, linh động. Theo cách nói bây giờ, ông là một người cầu tiến, mà ở thời kỳ đầu của điện ảnh thì ai cũng thế, khi ngành công nghiệp điện ảnh non trẻ này cho ra đời hàng chục tựa phim mỗi tuần. Trong những năm 1910, các đạo diễn phim câm được ca ngợi, như D.W. Griffith và Cecil B. DeMille, dường như đã vươn lên nhờ sự nhạy bén trong kinh doanh, sự tự tin giả tạo và cả sự may mắn.

Wong Howe có tất cả những điều đó, cộng thêm sự gan lỳ của ông. Điều đó thể hiện rõ trong sự đổi mới vô hạn và liều lĩnh trong tác phẩm của ông; tạo nên danh tiếng của ông như là một người cầu toàn tuyệt đối; và thành công cũng như địa vị được kính trọng của ông trong một ngành công nghiệp điện ảnh hầu như không có chỗ cho các nghệ sĩ gốc Á. James Wong Howe là hiện thân của một kẻ thách thức.

Sự nghiệp kéo dài hàng thập kỷ của ông, trải dài qua kỷ nguyên phim câm, thời kỳ hoàng kim của Hollywood và thời kỳ phục hưng New Hollywood vào những năm 1960 và 1970, là biểu tượng của tinh thần sáng tạo vẫn tồn tại bất chấp sự biến động của ngành cũng như những động thái phân biệt đối xử. Ông đã cách mạng hóa cách phim ảnh truyền đạt trực quan, phát triển các kỹ thuật mới có thể truyền tải cảm xúc mà không cần lời nói hoặc thậm chí là qua diễn viên - như cách sử dụng ống kính góc rộng và ống kính fish-eye theo phong cách biểu hiện trong bộ phim khoa học viễn tưởng “Seconds” (1966) của John Frankenheimer, hoặc một trong những cảnh quay trên không đầu tiên trong những khoảnh khắc cuối cùng của bộ phim hài lãng mạn “Picnic” (1955) của Joshua Logan.

Seconds (1966)

James Wong Howe sinh ra với tên Wong Tung Jim (tạm dịch: Hoàng Tông Thiêm) vào năm 1899 tại Đài Sơn, Giang Môn, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Vào đầu những năm 1900, ông được cha mình là một doanh nhân đưa đến Pasco, Washington. Ở đó, ông đã trải qua nạn phân biệt chủng tộc, học đấm bốc và bắt đầu mày mò máy ảnh trước khi cha ông qua đời vào năm 1914, mở ra một thời kỳ lang bạt và kiếm sống. Không khác gì nhân vật lang thang Tramp kinh điển của Charlie Chaplin, Wong Howe là một kẻ ngoài rìa của xã hội, liên tục gặp phải nhiều bất hạnh. Ông đã đến Oregon, San Francisco và sau đó là Los Angeles, nơi mà Jimmie Howe 18 tuổi cuối cùng đã kiếm được một công việc trong đội ngũ lao công của Lasky Studios.

Đạo diễn DeMille thích Jimmie, ông thích thú với những chiếc áo sơ mi hoa của chàng trai trẻ này, sự tương phản giữa vóc dáng nhỏ bé của Wong Howe và những điếu xì gà quá khổ mà chàng trai trẻ lúc đó hút trên phim trường. Wong Howe không hề thụ động; ông dường như coi vấn đề màu da của mình là một thử thách để vượt qua. Trong thời gian rảnh rỗi, ông bắt đầu làm quen với thiết bị của studio và thực hành chụp ảnh bằng máy ảnh tĩnh. Chẳng bao lâu sau, ông được thăng chức làm trợ lý quay phim.

Không ai vào thời điểm đó có thể được gọi là chuyên gia trong lĩnh vực quay phim cả. Mọi người đều học hỏi trong lúc làm việc, ứng biến và thử nghiệm với các công nghệ mới, vì vậy các thành viên đoàn làm phim nổi bật là những người tìm ra giải pháp sáng tạo cho các vấn đề phát sinh trên phim trường. Đây là thế mạnh của Wong Howe và là nguồn gốc cho bước đột phá lớn đầu tiên của ông. Nữ diễn viên Mary Miles Minter, ấn tượng với những bức ảnh chân dung tĩnh của Wong Howe về cô, đã khăng khăng yêu cầu ông quay bộ phim tiếp theo mà cô đóng. Wong Howe đã nghĩ ra một giải pháp có thể giúp đôi mắt xanh của cô không chuyển sang màu trắng trên máy quay, một vấn đề do những cuộn phim chính sắc nhạy với màu xanh được sử dụng vào thời điểm đó gây ra. Từ đó trở đi, danh tiếng của ông như một người quay phim đáng gờm đã được khẳng định.

Wong Howe không phải là nghệ sĩ châu Á duy nhất tụ tập ở các bãi đất trống phía sau studio. Nam diễn viên người Nhật Bản Sessue Hayakawa cũng nằm trong số đó. Việc thực thi luật chống hôn nhân khác chủng tộc trên màn ảnh của Hollywood đã hạn chế ông vào những vai người tình bị cấm hoặc những kiểu người Svengali tàn bạo, nhưng sự nổi tiếng của ông trong số những khán giả là phụ nữ da trắng đã khiến ông trở thành một hiện tượng thời đó. Tiếp đến là nữ diễn viên người Mỹ gốc Hoa Anna May Wong, một diễn viên phụ được tìm đến khi ngành công nghiệp điện ảnh bắt đầu thực hiện những tác phẩm lớn hơn, ngoạn mục hơn trong bối cảnh “kỳ lạ”. Trên thực tế, Wong Howe đã quay cô trong một trong những vai chính đầu tiên của cô, với vai công chúa bản địa Tiger Lily trong phim “Peter Pan” (1924) của Herbert Brenon.

Thế nhưng, xu hướng kỳ thị người châu Á mới nổi, cùng với Bộ luật sản xuất của những năm 1930, vốn đã kìm hãm việc miêu tả các mối quan hệ khác chủng tộc, càng làm giảm tính thiện chí của ngành công nghiệp trong việc hợp tác với những diễn viên gốc Á. Wong Howe ban đầu đã loay hoay trong giai đoạn này, nhưng tác phẩm của ông, đặc biệt là những bộ phim có thiên hướng về ánh sáng tương phản cao, kịch tính, khiến ông có biệt danh là “Low-key Howe” - một cái tên đã tự nói lên phong cách ông. Cảnh quay chia đôi màn hình của ông cho phép Thiếu tá Rassendyll do Ronald Colman thủ vai có thể nói chuyện trực tiếp với người song trùng của mình trong bộ phim “The Prisoner of Zenda” (1937) của John Cromwell, và các cảnh đấm bốc mà ông quay trong bộ phim “They Made Me a Criminal” (1939) của Busby Berkeley vô cùng sống động đến nỗi bạn gần như có thể cảm nhận được từng cú đấm.

Mặc dù được báo chí ngưỡng mộ, thì việc khi một người đàn ông châu Á tài năng và đầy cá tính đến vậy được đồng nghiệp kính trọng vẫn là một chuyện chỉ có trên giấy tờ, Wong Howe thường bị các thành viên da trắng dưới quyền chỉ đạo của ông khinh thường. Ông phải đối mặt với luật pháp và định kiến ​​khiến ông trở thành công dân hạng hai trong suốt cuộc đời. Trong Thế chiến II, ông đã phải đeo một chiếc cúc áo có dòng chữ “Tôi là người Trung Quốc” để tránh bị quấy rối nếu có ai đó nghĩ ông là người Nhật. Mặc dù đã sống ở Hoa Kỳ gần bốn thập kỷ, Đạo luật loại trừ người Trung Quốc năm 1882 đã cấm ông nhập quốc tịch; nếu không có quốc tịch, ông buộc phải từ chối những cơ hội sáng tạo thú vị, chẳng hạn như tham gia đoàn làm phim tài liệu thời chiến của John Ford.

Có lẽ điều tàn khốc nhất là cuộc hôn nhân của ông với tiểu thuyết gia Sanora Babb; cặp đôi đã kết hôn tại Paris vào năm 1937, nhưng luật chống hôn nhân khác chủng tộc của California và điều khoản đạo đức của hãng phim đã ngăn cản hôn nhân của họ đi đến công khai đến tận nhiều thập kỷ sau. Vì mối liên hệ bị nghi ngờ với những người Cộng sản Hollywood, ông đã bị Ủy ban Hạ viện Kiểm tra Hành động chống Hoa Kỳ đưa vào “danh sách xám”; Wong Howe hầu như không tham gia chính trường, nhưng điều đó không giúp ích gì khi Trung Quốc đã trở thành một quốc gia Cộng sản.

Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục trong những năm 40 bấp bênh, làm việc với Fritz Lang trong bộ phim kinh dị chiến tranh giật gân “Hangmen Also Die!” (1943), và khắc họa Ida Lupino với mọi sắc thái tham vọng và mong manh của cô trong bộ phim chính kịch đen tối “The Hard Way” (1943) của Vincent Sherman.

Những thước phim được quay bởi Wong Howe thật tuyệt vời, sự tương tác biểu cảm giữa ánh sáng và bóng tối của ông đã gợi lên những xung đột đạo đức từ hư không. Ông đã hình dung lại New York với phong cách ảm đạm, siêu thực trong “Sweet Smell of Success”, bộ phim chính kịch năm 1957 của Alexander Mackendrick về một nhà báo độc ác, một tác phẩm mà nhiều người coi là đỉnh cao của Wong Howe. Ông phủ sơn dầu lên các bức tường bên trong để tạo cho chúng một ánh sáng lấp lánh siêu thực, và sử dụng ống kính tiêu cự dài để làm cho các tòa nhà trông giống như các cụm với nhau, nhấn mạnh cảm giác mê sảng ngột ngạt.

Sweet Smells Of Success (1957)

Có rất ít cá nhân có tác phẩm mở ra sự chuyển đổi của điện ảnh từ cảnh tượng chỉ là những bộ phim rẻ tiền sang những bộ phim mang hình thức nghệ thuật. Tuy nhiên, Wong Howe vẫn còn những khát vọng khác. Từ những năm 1920, ông đã muốn trờ thành đạo diễn, và mặc dù ông đã được trao cơ hội dưới dạng phim tài liệu được ủy quyền và phim hạng “B”, nhưng những tham vọng thực sự của ông thường bị từ chối. Có một dự án về những người kéo xe kéo ở Trung Quốc, cũng như một kịch bản ông viết cùng Babb về Phố Tàu của San Francisco, nhưng cả hai ý tưởng cuối cùng đều bị hủy bỏ vì thiếu kinh phí. Bộ phim truyện duy nhất do Wong Howe đạo diễn, “Go, Man, Go!” (1954), có sự tham gia của Sidney Poitier và Ruby Dee. Đây là một tác phẩm điện ảnh thô sơ, nhưng sự kiên cường và tinh thần từ bộ phim thậm chí còn vĩ đại hơn là bề mặt của nó, giống như chính Wong Howe vậy.

Wong Howe không phủ nhận nguồn gốc Trung Quốc của mình. Trong một thời gian, ông điều hành một quán ăn Trung Quốc nổi tiếng được Marlene Dietrich, Mickey Rooney và Tyrone Power thường xuyên lui tới. Và trong những năm cuối đời, ông bắt đầu mặc trang phục truyền thống của Trung Quốc. Trong nghiên cứu về nhà quay phim này của Todd Rainsberger năm 1981, có thể thấy rõ rằng Wong Howe, người đã mất năm 1976, mong muốn tạo ra một bức chân dung rộng hơn về người Mỹ, một bức chân dung mà ông cảm thấy chân thực, nếu không phải là chân thực với những người chủ của ông. Ông là một trong những nhà quay phim vĩ đại của Mỹ và là người hai lần đoạt giải Oscar, nhưng ông muốn nhiều hơn thế nữa vì ông biết mình xứng đáng. Đó chính là sự thách thức từ ông.

Dịch từ bài báo “James Wong Howe: A Gutsy Cinematographer Finally Gets His Due” của tờ The New York Times


Ủng hộ All About Movies

Đóng góp cho các tay viết của AMO
hàng tháng chỉ từ 10K VNĐ

amo